ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỨC TRỌNG QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN KHÓA XIII, NHIỆM KỲ 2020-2025
Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Trọng (1930 - 1975) In trang
14/07/2021 03:23 CH

 

 

 

 

 

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Đức Trọng là một huyện nằm về phía Bắc tỉnh Lâm Đồng, một quê hương có lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Lâm Đồng ở Nam Tây Nguyên, là vùng ven, cửa ngõ phía Nam của thành phố Đà Lạt. Trải qua công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng tỉnh Lâm Đồng, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, cùng cả nước viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.

Thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28 tháng 8 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị số 27-CT/TU ngày 03 tháng 6 năm 2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng “Về tăng cường công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, lịch sử truyền thống cách mạng”. Trên cơ sở cuốn “Sơ thảo truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Đức Trọng (1930-1975)” và các nhân chứng lịch sử, các đồng chí lão thành cách mạng cung cấp thêm nhiều thông tin, tư liệu quí giá; Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Quyết định số 60-QĐ/HU ngày 28 tháng 8 năm 2008 về “Thành lập Ban biên tập Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Trọng (1930-1975)”. Thời gian qua, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo Ban biên tập tiến hành tổng hợp, nghiên cứu các tư liệu được cung cấp và đối chiếu với Lịch sử Quân khu 6, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng để biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Trọng (1930-1975), bảo đảm tính hệ thống, tính lịch sử, tính Đảng, tính thống nhất, khách quan và khoa học.

Sau khi tổ chức các cuộc hội thảo, tiếp thu các ý kiến của các đồng chí lão thành cách mạng, các nhân chứng lịch sử và các đồng chí nguyên là cán bộ lãnh đạo của Đảng các cấp đã từng công tác, chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên địa bàn huyện đóng góp, bổ sung, làm sáng tỏ các vấn đề về quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ cách mạng của Đảng ở địa phương và các sự kiện lịch sử, Ban biên tập biên soạn, hoàn thiện cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Trọng (1930-1975). Nội dung cuốn lịch sử trình bày khái quát về quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng; sự ra đời và phát triển của tổ chức Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện; những thành tích trong chiến đấu, sản xuất của Đảng bộ, quân và dân huyện nhà trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Trọng (1930-1975) là tài liệu rất quan trọng, góp phần giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau lòng tự hào và ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước để không ngừng phấn đấu vươn lên, phát huy truyền thống của lớp lớp cha ông trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là trong những bước chuyển giai đoạn, những bước ngoặc của cách mạng.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, biên soạn nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, Ban Thường vụ Huyện ủy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong huyện và bạn đọc để lần tái bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn.

 

                                                    BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY ĐỨC TRỌNG

 

   

 

VỊ TRÍ ĐIẠ LÝ, DÂN CƯ VÀ XÃ HỘI HUYỆN ĐỨC TRỌNG

 

Huyện Đức Trọng([1]) thuộc tỉnh Lâm Đồng, là cửa ngõ phía Nam dẫn vào thành phố Đà Lạt, có diện tích tự nhiên 189.500 ha. Phía Bắc giáp thành phố Đà Lạt,  phía Nam giáp huyện Di Linh, phía Đông giáp huyện Đơn Dương, phía Tây giáp huyện Lăk (tỉnh Đăk Lăk) và phía Tây Bắc giáp huyện Lạc Dương.

Năm 1920, vùng đất Đức Trọng thuộc tổng Bình Thạnh, quận D’Ran, tỉnh Đồng Nai Thượng. Địa giới tổng Bình Thạnh từ ngã ba Phi Nôm đến cầu Đại Ninh và mở rộng về phía Tây, Tây Bắc tới vùng La Ba (xã Phú Sơn).

Trong những năm trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ranh giới quận D’Ran không thay đổi, song cơ cấu hành chính tổng Bình Thạnh([2]) được chia thành 6 tổng gồm: Phú Hội, Phú Thạnh, Langbian, Teurlang Tho (Tơlăng Tô), RôMen và Teurlang Deung (Tơlăng Đơng).

Ngày 19 tháng 5 năm 1958, chính quyền Sài Gòn - Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 261-NV thành lập tỉnh Tuyên Đức, gồm 3 quận (huyện)([3]): Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương. Quận Đức Trọng có 4 tổng, 12 xã gồm: Tổng Ninh Thạnh có 3 xã là Hiệp Thạnh, Phú Ninh và Tùng Nghĩa; tổng Sơn Bình có 2 xã là Phú Sơn và Bình Thạnh; tổng Mỹ Lệ có 4 xã là Tơlăng Tô, Rômen, Tơlăng Đơng và Yang Lée (Giang Lê); tổng Đinh Tân có 3 xã là N’Thol Hạ, Langbian, Đinh Văn; với tổng số 60 ấp, dân số có hơn 22.300 người([4]).

Tháng 4 năm 1949, Ban cán sự Đảng tỉnh Lâm Viên đặt tên khu vực này là khu Chiến Đấu, tháng 10 năm 1950, Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Trung bộ quyết định đổi tên khu Chiến Đấu thành huyện Chiến Đấu. Dân số ước khoảng 10.000 người.

Tháng 9 năm 1963, Tỉnh ủy Tuyên Đức giải thể, huyện Đức Trọng được chuyển giao cho tỉnh Quảng Đức quản lý, chỉ đạo. Đến tháng 5 năm 1965, tỉnh ủy Tuyên Đức được thành lập lại, lúc này huyện Đức Trọng thuộc tỉnh Tuyên Đức.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, huyện Đức Trọng có 11 xã gồm: Hiệp Thạnh, Liên Hiệp, Tùng Nghĩa, N’Thol Hạ, Bình Thạnh, Đinh Văn, Phú Sơn, Tơlăng Tô, Tơlăng Đơng, Phú Hội và xã Loan. Trong những năm từ 1975 đến 1979, địa giới hành chính của huyện và các xã trong huyện có nhiều thay đổi: Tháng 11 năm 1975, Khu ủy 6 quyết định giải thể huyện Lạc Dương, sáp nhập xã Lát và vùng Đam Rông của huyện Lạc Dương (cũ) vào huyện Đức Trọng; tháng 5 năm 1976 sáp nhập xã Tơlăng Tô với xã Tơlăng Đơng thành xã Đạ Đờn và và sáp nhập các xã vùng Đam Rông thành xã Đam Rông; tháng 10 năm 1976 thành lập xã Tân Hội; năm 1977, tách xã Đinh Văn thành 2 xã: Đinh Văn và Tân Văn, đổi tên xã Loan thành xã Tà Hine, sáp nhập khu vực Phisrôn với Prijông Tô thành xã Phi Tô; ngày 14 tháng 3 năm 1979 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 116-QĐ/CP điều chỉnh địa giới hành chính một số huyện của tỉnh Lâm Đồng, trong đó, thành lập lại huyện Lạc Dương và điều chỉnh địa giới huyện Đức Trọng: sáp nhập thôn Bồng Lai và thôn Bắc Hội của xã Thạnh Mỹ (huyện Đơn Dương) vào xã Hiệp Thạnh (huyện Đức Trọng), chuyển giao xã Lát và xã Đam Rông về huyện Lạc Dương, chuyển giao xã Tà Hine và vùng kinh tế mới Đà Lạt tại vùng Loan về huyện Đơn Dương; ngày 6 tháng 3 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 38-QĐ/HĐBT giải thể xã Tùng Nghĩa và sáp nhập thôn Liên Hiệp (xã Liên Hiệp) vào xã Tùng Nghĩa để thành lập thị trấn Liên Nghĩa.

Ngày 24 tháng 10 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 157-QĐ/HĐBT chia tách huyện Đức Trọng thành 2 huyện: Đức Trọng và Lâm Hà; điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Di Linh, Đơn Dương. Trong đó, sáp nhập xã Ninh Gia (huyện Di Linh) và 4 xã: Tà Hine, Đà Loan, Ninh Loan, Tà Năng (huyện Đơn Dương) vào huyện Đức Trọng.

Ngày 18 tháng 6 năm 1999, Chính phủ ra quyết định tách xã Hiệp Thạnh thành 2 xã: Hiệp Thạnh và Hiệp An. Tháng 10 năm 2000, tách xã Tân Hội thành 2 xã: Tân Hội và Tân Thành. Tháng 3 năm 2009, tách xã Tà Năng thành 2 xã: Tà Năng và Đa Quyn.

Hiện nay, huyện có 15 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Liên Nghĩa và 14 xã: Hiệp An, Hiệp Thạnh, Liên Hiệp, N’Thol Hạ, Bình Thạnh, Phú Hội, Tân Hội, Tân Thành, Ninh Gia, Tà Hine, Đà Loan, Ninh Loan, Tà Năng và Đa Quyn.

 

Địa lý, khí hậu và tài nguyên

Huyện Đức Trọng nằm trên cao nguyên Di Linh và một phần cao nguyên Langbian, có độ cao trung bình 700m, có các đỉnh cao từ 975m đến trên 2.000m (đỉnh núi Voi cao 2122m). Đặc điểm nổi bật của huyện Đức Trọng là ít có gió bão, khí hậu ôn hoà; nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22-240C; lượng mưa trung bình 1.550 - 1.965mm, chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ giữa tháng 4 đến cuối tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.

Huyện Đức Trọng có tổng diện tích tự nhiên là 90.220ha, đất đai phì nhiêu, bao gồm 8 nhóm đất, trong đó có 3 nhóm đất chính: đất đỏ vàng chiếm diện tích lớn (74.746 ha), đất dốc tụ (6.059 ha), đất phù sa (5.854 ha), phù hợp với các loại cây công nghiệp như cà phê, chè, dâu tằm; cây ăn quả như cam, sầu riêng, hồng…; các loại cây ngắn ngày như bắp (ngô), khoai lang, khoai môn, rau, hoa cao cấp các loại.

Trong tổng diện tích tự nhiên, đất rừng chiếm 48% bao gồm rừng hỗn giao và rừng thông, trong đó có một số loài cây quý hiếm như thông 1 lá dẹt, thông đỏ… và nhiều loài chim, thú, bò sát…

Huyện Đức Trọng có nhiều tiềm năng khoáng sản như vàng, titan, nước khoáng nóng và các loại đất quý hiếm như Diatonit, Bentonit…

Địa hình huyện Đức Trọng bị chia cắt bởi hệ thống đồi núi và hệ thống hợp lưu sông suối chằng chịt, có 3 dòng sông chính là thượng lưu của sông Đồng Nai chảy qua địa bàn huyện là các sông Da Nhim, Da quyenzon (Đạ Quyn), Da Dâng (Đạ Đờn) tạo ra tiềm năng để xây dựng các công trình thuỷ điện như thuỷ điện Đại Ninh, thuỷ điện Đa Dâng và nhiều hồ nước nhân tạo như: hồ Đại Ninh, Ma Pó, Kay An, Nam Sơn… cung cấp nước cho thủy điện, thủy lợi, phục vụ sản xuất nông nghiệp; có các thác nước như Pongour, Gougah, Bliang (thác Bảo Đại), Liên Khương, được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá thiên nhiên cấp quốc gia, có tiềm năng phục vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, thu hút nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan, thưởng ngoạn.

 

Dân tộc, dân cư  và tín ngưỡng, tôn giáo

Huyện Đức Trọng có 27 dân tộc anh em sống đan xen với nhau trên địa bàn các xã, thị trấn; bao gồm dân tộc tại chỗ (dân tộc Tây Nguyên) như: Chu ru, K’Ho, Chil và các dân tộc khác như Kinh, Hoa, Tày, Nùng, Thái….

Dân tộc Chu ru cư trú tập trung ở các xã Tà Năng, Đạ Quyn, Tà Hine, một bộ phận sống ở xã Phú Hội, Đà Loan; dân tộc K’Ho cư trú tập trung ở xã Hiệp Thạnh, Hiệp An, N’Thol Hạ, Phú Hội, Ninh Gia; dân tộc Chil (một nhánh dân tộc K’Ho) từ năm 1962 trở về trước sống tại các xã của huyện Lạc Dương, giữa năm 1962 đến đầu năm 1963 và trong các năm 1965 - 1967 bị đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn dồn dân lập ấp chiến lược tại các xã N’Thol Hạ, Phú Hội, Hiệp Thạnh (nay là xã Hiệp An) để kìm kẹp, cách ly với cách mạng. Sau ngày giải phóng miền Nam, Đảng và Nhà nước đã tổ chức cho đồng bào định canh, định cư tại các xã: N’Thol Hạ, Phú Hội, Đà Loan, Ninh Gia, Tà Năng, Đa Quyn và Hiệp An.

Đồng bào dân tộc thiểu số của các tỉnh phía Bắc phần lớn là đồng bào Thái, Tày, Nùng, Hoa… bị dụ dỗ, cưỡng ép di cư vào miền Nam năm 1954 - 1955, sinh sống trên địa bàn các xã: Tùng Nghĩa (nay là thị trấn Liên Nghĩa), Liên Hiệp, Hiệp Thạnh, N’Thol Hạ, Tân Thành. Một bộ phận đông đảo nhân dân vào địa phương sau ngày giải phóng miền Nam dưới hai hình thức di dân theo kế hoạch và di dân tự do.

Đồng bào Kinh định cư tại huyện Đức Trọng trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Một bộ phận là những người đi làm phu cho thực dân Pháp trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ 2 (1929 - 1945) như làm đường giao thông, khai thác, chế biến tài nguyên rừng, khai hoang, lập đồn điền cà phê, chè, quinquyna … Một bộ phận đồng bào theo đạo công giáo và thân nhân của những người đi lính cho Pháp bị lừa mị, dụ dỗ, cưỡng ép di dân vào miền Nam sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Đồng bào các tỉnh duyên hải miền Trung do bị chế độ Mỹ-ngụy khủng bố, đàn áp dã man nên hàng chục ngàn người đã đến huyện Đức Trọng lánh nạn, làm ăn sinh sống. Sau ngày giải phóng miền Nam (30/4/1975) cho đến nay theo chủ trương của Đảng và Nhà  nước sắp xếp, bố trí lại dân cư, tạo thế chiến lược về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, huyện Đức Trọng đã tiếp nhận đồng bào các tỉnh, thành phố phía Bắc như Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định và một bộ phận đồng bào của thành phố Đà Lạt đến xây dựng các vùng kinh tế mới trên địa bàn huyện.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, dân số huyện Đức Trọng tăng nhanh. Tháng 10 năm 1949, dân số khoảng 10.000 người, đến tháng 2 năm 1976 tăng lên 76.000 người. Hiện nay, tổng số dân huyện Đức Trọng có 170.383 người, trong đó hơn 70% dân số theo đạo, với 4 tôn giáo chính là: Phật giáo (38.017 người); Công giáo (37.853 người); các hệ phái Tin Lành, chủ yếu là hệ phái CMA và Cơ Đốc Phục Lâm (17.287 người), Cao Đài (có 3 hệ phái: Tây Ninh, Bến Tre, Cầu Kho với 2.468 người).

Là một huyện đa dân tộc và dân cư ở nhiều vùng, miền trong cả nước, theo nhiều tôn giáo khác nhau cùng sống đan xen với nhau; mỗi dân tộc, mỗi vùng, miền có truyền thống, sắc thái văn hoá, phong tục tập quán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, đến định cư ở huyện Đức Trọng trong nhiều hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng không có sự phân biệt đối xử giữa đồng bào Kinh với đồng bào các dân tộc thiểu số, giữa người có đạo với người không có đạo, tạo ra sự đa dạng, phong phú về sắc thái văn hoá của cộng đồng cư dân huyện Đức Trọng.

Đặc điểm lớn của cư dân đến huyện Đức Trọng trước ngày miền Nam giải phóng phần lớn là nhân dân đi làm phu dưới nhiều hình thức như bị bắt ép, mộ phu hoặc do bị Mỹ - ngụy trả thù, khủng bố, đàn áp dã man, nhất là những người tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và đấu tranh chống chế độ Mỹ -ngụy, đòi hiệp thương thống nhất đất nước buộc phải “tha hương cầu thực”. Họ rất thật thà, chất phát, cần cù trong lao động và có tinh thần đấu tranh anh dũng trong chống thực dân, đế quốc, phong kiến. Khi đến huyện Đức Trọng sinh sống, họ mang theo truyền thống cách mạng của quê hương và có mối liên hệ với phong trào cách mạng ở quê nhà, thường xuyên nắm bắt kịp thời thông tin về phong trào cách mạng ở khắp nơi trong nước. Tuy nhiên, cư dân ở huyện Đức Trọng cũng thường xuyên bị biến động qua các thời kỳ, đã ảnh hưởng đến phong trào cách mạng trên địa bàn huyện.

 

Về kinh tế:

Đầu thế kỷ XX, dân cư trên vùng đất Đức Trọng còn thưa thớt, đó đây chỉ có vài buôn nhỏ của đồng bào dân tộc K’Ho, Churu …. sống rải rác theo các cánh đồng lúa nước dọc theo triền đồi, sông, suối với trình độ canh tác rất thấp, Kinh tế mang tính tự cung, tự cấp, quan hệ hàng hoá chưa hình thành, trong trao đổi với nhau những vật phẩm phục vụ sản xuất và tiêu dùng chủ yếu bằng hình thức vật - đổi vật.

Nơi đây, chủ yếu là vùng đất trồng cây công nghiệp, một phần nhỏ diện tích đất trồng cây lương thực, thực phẩm. Các ngành nghề truyền thống chủ yếu là đan lát, dệt thổ cẩm phục vụ tiêu dùng trong gia đình. Trong thời kỳ kháng chiến, lương thực và các mặt hàng tiêu dùng đều phụ thuộc từ các nơi khác đem đến.

Bằng những thủ đoạn mua bán, dụ dỗ, cưỡng đoạt, nhiều vùng đất màu mỡ, phù hợp với trồng cây công nghiệp, thuận lợi cho sản xuất đều nằm trong tay bọn chủ tư sản Pháp và tư sản người Việt. Các công ty, đồn điền, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp từng bước hình thành như: Công ty trồng cây nhiệt đới([5]) ở đồn điền Phi Vàng rộng 750ha; đồn điền trà, cà phê của Lê Tấn Phát ở Phú Sơn có diện tích trên 250ha; Viện khảo cứu Lang Hanh; đồn điền Dulandou Lê Vĩnh Phước; cơ sở chế biến cà phê De fill ở Phi Nôm; đồn điền Quinquyna ở Lán Tranh; cơ sở chế biến mủ ngo (nhựa thông) Hương Lan ở Phú Thạnh.

Ruộng đất chủ yếu nằm trong tay tư sản Pháp và tư sản người Việt, giá nhân công rẻ mạt, công nhân trong các xí nghiệp, đồn điền, làm đường giao thông… phải làm việc từ 12 đến 14 giờ mỗi ngày với đồng lương ít ỏi, chưa kể thường xuyên bị đánh đập, cúp phạt, khiến họ không đủ nuôi sống bản thân và gia đình. Thêm vào đó, “Nhà nước bảo hộ” còn buộc những người công nhân lao động phải đóng các “thứ thuế” như thuế thân, thuế muối. Đối với người nông dân, dù cảnh đời “một nắng hai sương”, “dãi nắng dầm mưa”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” quanh năm vẫn chẳng đủ ăn, ruộng đất lại bị cướp đoạt, người nông dân còn phải đi “làm xâu” mỗi năm từ 15 đến 20 ngày, phục vụ cho bộ máy thực dân Pháp và các ông chủ đồn điền quanh vùng và phải đóng thuế đinh, thuế điền.

Huyện Đức Trọng tuy là vùng đất mới khai thác vào nửa đầu thế kỷ XX nhưng với thủ đoạn chiếm đoạt ruộng đất, lập đồn điền và bóc lột nhân công nặng nề, thực dân Pháp và bọn tay sai phản động giàu lên nhanh chóng. Cùng với các hoạt động triệt để khai thác, vơ vét tài nguyên, bóc lột về kinh tế, thực dân Pháp đã sử dụng bọn tay sai người Việt thiết lập bộ máy cai trị hà khắc, xây dựng các cơ sở kinh tế, hệ thống các công trình quân sự, giao thông đường bộ, đường hàng không, kho tàng, nhà máy để phục vụ cho việc khai thác tài nguyên và cai trị lâu dài của chúng.

 Từ năm 1907 đến đầu năm 1914, đoạn đường Di Linh - Đà Lạt được khai thông, đường 21 bis (nay là quốc lộ 27) thi công từ năm 1924 đến 1925, tuyến đường 20 (ngã ba Dầu Dây - Đức Trọng - Đà Lạt) hoàn thành vào tháng 12 năm 1932, sân bay Liên Khàng­ ­­­(nay là sân bay Liên Khương) xây dựng 1934 - 1939. Nhân dân các dân tộc trong huyện bị bóc lột nặng nề về kinh tế và bị áp bức hết sức khốc liệt, tàn nhẫn về chính trị, làm cho đời sống vốn đã nghèo nàn, cơ cực càng bị bần cùng hoá cao độ.

 

Về văn hoá - xã hội:

Về cơ sở xã hội: Cư dân huyện Đức Trọng nửa đầu thế kỷ 20 chủ yếu là đồng bào dân tộc, theo chế độ mẫu hệ, trong đó mọi quan hệ với nhau thuộc về thân tộc, thích tộc, trong hôn nhân tuy 1 vợ 1 chồng song vẫn tồn giữ lệ tục huyền. Tôn giáo, tín ngưỡng mang nặng tính chất nguyên thủy, đồng bào còn quan niệm trong đời sống vũ trụ có các thần chung sống như: Ác thần B’riêng, nữ thần lúa, thần sông, thần suối, thần núi, thần mặt trời, thần mưa, thần gió… Những yếu tố tâm lý mê tín đó là “miếng đất tốt” để kẻ thù triệt để lợi dụng, kích động chia rẽ tôn giáo, dân tộc, kìm hãm sản xuất, đời sống đồng bào trong vòng u tối.

Về giáo dục: Trước năm 1945, cả quận D’Ran có một trường sơ học yếu lược (dạy đến lớp 3), chương trình học bằng song ngữ: tiếng Pháp và tiếng Việt nhưng chủ yếu dạy tiếng Pháp, tiếng Việt chỉ được coi là một môn ngoại ngữ. Học sinh đa số là con em những gia đình giàu có và con bọn tay sai của thực dân Pháp.

Về Y tế: Trạm y tế Gia Thạnh không có giường bệnh, do một y tá người dân tộc phụ trách, nhưng thực chất để nhận thuốc và cấp phát thuốc. Người dân khi đau ốm vẫn thường cúng lễ hoặc dùng lá cây rừng để chữa bệnh.

Thay vì được học tập, chữa bệnh, thực dân Pháp tiến hành “cứu trợ, khai thông dân trí” bằng thần quyền, giáo lý. Trường học, bệnh viện không có, trong khi nhà thờ, nhà tù được xây dựng khắp nơi.

 

Huyện Đức Trọng([6]) có vị trí địa lý xung yếu, nằm trên địa bàn chiến lược Nam Tây Nguyên, là cửa ngõ phía Nam, vùng ven của thành phố (thị xã) Đà Lạt([7]), là địa bàn trọng điểm của ta và địch. Nhất là từ những năm 1973 - 1975, địch co cụm để phòng thủ, bảo vệ Đà Lạt từ cửa ngõ phía Nam thị xã (huyện Đức Trọng) vì chúng sợ mất địa bàn huyện Đức Trọng là mất thị xã Đà Lạt. Về phía ta, muốn giải phóng được thị xã Đà Lạt thì vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải giải phóng huyện Đức Trọng. Do đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vị trí trọng điểm của địa bàn huyện Đức Trọng lại càng nổi bật hơn các giai đoạn trước đó; một địa bàn luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt, chà xát, giằng co giữa ta và địch, gây cho địch tổn thất lớn, ta cũng tổn thất không nhỏ.

Đối với địch, đây là địa bàn xung yếu, hướng chốt chặn chủ yếu ngăn chặn cách mạng xâm nhập và tấn công vào các căn cứ, trung tâm hành chính, chính trị, quân sự quan trọng của địch trong nội ô thị xã Đà Lạt([8]). Địch xây dựng hệ thống phòng thủ liên hoàn trên địa bàn huyện như: Căn cứ 61 của quân đội Mỹ, căn cứ quân sự tại chân núi Voi (căn cứ 20), Trung tâm huấn luyện địa phương quân và nghĩa quân liên tỉnh (Trung tâm huấn luyện lính bảo an và dân vệ), căn cứ trung đoàn 53 của sư đoàn 23, Liên đoàn 85 biệt động quân ngụy, sân bay Liên Khương… và hệ thống đồn bót dày đặc trên các trục quốc lộ 20 và 21bis (hai trục đường huyết mạch nối thị xã Đà Lạt với thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh); thị xã Đà Lạt với thị xã Phan Rang và thành phố Nha Trang; thị xã Đà Lạt với các tỉnh Tây Nguyên, địch thường xuyên mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá quyết liệt trên địa bàn huyện, có những thời điểm chúng sử dụng trung đoàn 53 (sư đoàn 23) và tăng cường các liên đoàn biệt động quân càn quét, đánh phá gây cho lực lượng cách mạng của Khu 6, của tỉnh và phong trào cách mạng ở địa phương nhiều khó khăn, tổn thất.

Đối với cách mạng, đây là địa bàn được Khu uỷ Khu 6, Liên tỉnh 3, Tỉnh uỷ Tuyên Đức và Thị uỷ Đà Lạt chọn làm căn cứ, địa bàn đứng chân, đưa đón cán bộ và là nơi tập kết lực lượng tấn công vào các cơ quan đầu não, căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy đặt tại thị xã Đà Lạt; một địa bàn chiến lược quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức chỉ đạo xây dựng phong trào, phát triển lực lượng, tổ chức đánh địch trong nội ô thị xã Đà Lạt. Do đó, phong trào cách mạng của huyện Đức Trọng và thị xã Đà Lạt có mối quan hệ hữu cơ, đảm bảo sự thống nhất chỉ đạo nhằm tạo ra sự đồng bộ, sức mạnh tổng hợp để tấn công địch trên các mặt chính trị, quân sự, binh vận. Do đặc điểm vị trí địa lý này nên trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược trên địa bàn huyện có nhiều cơ quan, nhiều cấp lãnh đạo, nhiều lực lượng đứng chân hoạt động và chỉ đạo phong trào cách mạng.

Nhân dân huyện Đức Trọng vốn xuất thân là những người lao động sống cùng cảnh ngộ “tha hương cầu thực”, đồng bào dù là người Kinh hay người dân tộc thiểu số, người miền Nam, miền Trung hay miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc trong huyện luôn luôn kề vai, sát cánh, xích lại gần nhau hơn, cùng đoàn kết, đùm bọc, che chở cho nhau, kiên quyết đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần thứ nhất

ĐẤU TRANH CHỐNG ÁP BỨC BÓC LỘT,

CÙNG NHÂN DÂN CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

(1930-1954)

 

Chương I

ĐẤU TRANH CHỐNG ÁP BỨC, BÓC LỘT VÀ KHỞI NGHĨA

GIÀNH CHÍNH QUYỀN  (1930-1945)

 

I. NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG ÁP BỨC BÓC LỘT CỦA NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945.

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933), nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản bắt đầu phục hồi, thực dân Pháp đẩy mạnh xây dựng nhiều công trình giao thông như quốc lộ 20, 21bis (nay là quốc lộ 27), sân bay Liên Khàng([9]) (nay là sân bay Liên Khương), lập thêm nhiều đồn điền mới, làm cho số lượng người làm phu cho Pháp ngày càng đông, cơ cấu thành phần xã hội ở quận D’Ran - Đức Trọng có nhiều thay đổi, giai cấp công nhân tăng nhanh, giai cấp tư sản là người Việt cũng bắt đầu xuất hiện, số lượng thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ cũng đông hơn trước.

Trong những năm 1936 - 1939, cách mạng nước ta có những biến đổi sâu sắc, Đảng Cộng sản và Mặt trận dân chủ Đông Dương phát triển mạnh, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động diễn ra sôi nổi trong cả nước, đã có ảnh hưởng lớn đến nhân dân quận D’Ran - Đức Trọng. Nhiều cuộc đấu tranh chống cướp đoạt ruộng đất, lập đồn điền, chống đi phu, chống làm xâu([10]) và nộp thuế cho Pháp nổ ra khắp nơi ở 2 tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng, đáng chú ý là phong trào Mọ Cộ của đồng bào dân tộc K’Ho nổ ra ở huyện Di Linh năm 1937 - 1938([11]).

Tháng 5 năm 1938, giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh, thực dân Pháp ráo riết đàn áp, bắt giam, tra tấn dã man nhiều người, trong đó có 2 thủ lĩnh của phong trào là bà K’Nhòi và bà K’Voai. Ngày 13 tháng 12 năm 1938, chúng mở phiên toà tại quận Di Linh kết tội 14 người làm loạn, chống lại chính quyền bảo hộ của Pháp và kết án họ với mức án từ 8 năm đến 20 năm tù khổ sai([12]).

Phong trào Mọ Cộ tuy bị thất bại nhưng đã ảnh hưởng sâu sắc trong đồng bào các dân tộc ở quận D’Ran - Đức Trọng và 2 tỉnh Lâm Viên  và Đồng Nai Thượng.

Từ cuối năm 1937, phong trào đấu tranh của công nhân chống bọn chủ xưởng hà hiếp, đánh đập, đòi giải quyết các quyền lợi khi đau ốm, giảm giờ làm… liên tiếp nổ ra, có những cuộc đấu tranh có sự liên kết giữa công nhân và nông dân, nổi bật là cuộc đấu tranh của hơn 100 công nhân xưởng chè Defill cùng với hàng trăm nông dân quanh vùng Bắc Hội, Phi Nôm để đưa yêu sách:

 Không được vô cớ sa thải công nhân;

 Trả lại ruộng đất;

 Không bắt nhân dân đi làm xâu;

 Giảm thuế.

Trong cuộc đấu tranh này, quần chúng đã tự động đốt phá kho xưởng của giới chủ. Để đối phó, bọn Pháp đã huy động lính quận D’Ran đến đàn áp dã man, làm 17 người chết, hàng chục người bị thương và nhiều người khác bị bắt.

Năm 1942, công nhân làm việc ở sân bay Liên Khàng nổi dậy đốt phá kho xưởng.

Cuối năm 1943, công nhân làm đường quốc lộ 20 đấu tranh chống cúp phạt, đòi trả lương đúng kỳ hạn và bán lương thực với giá rẻ hơn.

Đầu năm 1945, công nhân khai thác mủ ngo ở Gougah, Phi Nôm đình công để đấu tranh đòi quyền lợi, đã gây cho chủ nhiều thiệt hại.

Các cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động huyện Đức Trọng trước năm 1945 nổ ra liên tiếp, thu hút đông đảo lực lượng tham gia nhưng mang tính tự phát, chủ yếu là đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế. Các phong trào thường là đốt phá kho xưởng, máy móc của chủ rồi bỏ trốn. Tuy nhiên, qua phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc trong huyện đã thể hiện tinh thần đoàn kết các dân tộc, đoàn kết giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và truyền thống đấu tranh cách mạng, tinh thần đó càng được phát huy khi có ánh sáng của Đảng dẫn đường, chỉ lối.

 

II. NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Cuối năm 1944 sang đầu năm 1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”([13]), chỉ rõ kẻ thù trước mắt của cách mạng Việt Nam là phát xít Nhật. Đảng phát động phong trào kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ. Cuối tháng 4 năm 1945, tỉnh bộ Việt Minh lâm thời ra đời hoạt động mạnh mẽ đã gây ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân cả nước.

Ngay trong đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945, ở tỉnh Đồng Nai Thượng, cuộc đảo chính của Nhật không tốn một viên đạn. Tất cả bọn cầm quyền thực dân Pháp đầu hàng và bị Nhật bắt giam. Sau khi đảo chính thực dân Pháp, phát xít Nhật lập ra bộ máy chính quyền tay sai thân Nhật, do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng, phát xít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”; thuyết “Đồng chủng da vàng”, đề cao công ơn của Nhật cho Việt Nam được “độc lập”, đồng thời chúng áp dụng chính sách cai trị, lừa bịp nhân dân ta.                                  Về chính trị: Chúng ra sức tập hợp lực lượng và hình thành tổ chức “thanh niên hướng đạo sinh”, “thanh niên bảo an đoàn”… phục vụ guồng máy chiến tranh của Nhật. Chúng triệt để lợi dụng các tổ chức Phật giáo, Công giáo để dụ dỗ, lừa gạt đồng bào, đẩy mạnh các hoạt động do thám, chỉ điểm.

Về quân sự: Nhật bố trí quân đội chốt giữ sân bay Liên Khàng và các vị trí xung yếu trên địa bàn huyện Đức Trọng, ráo riết bắt lính bổ sung vào đội quân viễn chinh xâm lược của chúng; bắt xâu để xây dựng hệ thống công sự, hầm hào phòng thủ và các công trình quân sự nhằm tạo phòng tuyến chốt chặn, bảo vệ thị xã Đà Lạt, thực hiện ý đồ đưa Bộ Chỉ huy quân đội Nhật ở Thái Bình Dương lên thị xã Đà Lạt để cố thủ đến cùng, hòng chống chọi với quân đồng minh.

Về kinh tế: Nhật nắm giữ các cơ sở kinh tế, công sở quan trọng, cho phép các công ty của Nhật vào khai thác gỗ, mủ ngo, vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân dân ta bằng sưu cao, thuế nặng và bắt đi làm xâu cho chúng.

Trước những áp bức, bóc lột nặng nề của phát xít Nhật và sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng lớn trong cả nước, phong trào kháng Nhật ngày càng lên cao đã tác động mạnh mẽ đến nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng. Trong các công sở, đồn điền, công nhân đấu tranh chống lại bọn chủ, bỏ việc, điển hình là cuộc nổi dậy của công nhân khai thác mủ ngo ở Phú Hội, Phi Nôm làm cho chúng bị thiệt hại nặng nề.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, tin Nhật đầu hàng đồng minh truyền đi khắp nơi trong cả nước, không khí chuẩn bị khởi nghĩa trở nên sôi động vào những ngày cuối tháng 8 năm 1945.

Ngày 22 tháng 8, nhân dân Cầu Đất - Trạm Hành (xã Xuân Trường, huyện Đơn Dương) nổi dậy giành chính quyền thắng lợi. Đêm 22 tháng 8, một đoàn cán bộ và 2 tiểu đội thanh niên có vũ trang ở D’Ran sử dụng 2 xe tải cắm cờ đỏ sao vàng đi xuống huyện Di Linh để giành chính quyền. Trên đường đi, đoàn đã tước vũ khí của quân Nhật ở trạm gác Liên Khàng, Đại Ninh. Ngay trong đêm 22 tháng 8, tại huyện Di Linh, dưới áp lực đấu tranh của quần chúng, viên tỉnh trưởng tỉnh Đồng Nai Thượng là Cao Minh Hiệu tuyên bố đầu hàng, giao nộp ấn tín (con dấu) và những giấy tờ quan trọng khác. Sau khi Cao Minh Hiệu chấp nhận và thực hiện các yêu cầu của cách mạng, đoàn công tác đã giao cho Cao Minh Hiệu quản lý số cán bộ, công chức cũ nhưng không được giải quyết bất cứ việc gì, khi nào cách mạng cử người về tiếp quản, có trách nhiệm bàn giao lại. Trong ngày 23 tháng 8, nhân dân thị xã Đà Lạt khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Sáng ngày 24 tháng 8 năm 1945, tổ chức mít tinh và ra mắt Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên.

Tại La Ba (xã Phú Sơn), sáng 25 tháng 8 năm 1945, sau khi từ thị xã Đà Lạt về, ông Trương Văn Dần và ông Hai Lễ([14]) đã nhanh chóng loan báo tin thị xã Đà Lạt khởi nghĩa thắng lợi và đã thành lập chính quyền cách mạng; đồng thời, kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Từ ngày 26 đến 28 tháng 8 năm 1945, giành thắng lợi ở Gia Thạnh, Phú Hội và các nơi khác trong huyện.

Tại huyện Di Linh, việc giành chính quyền tuy diễn ra nhanh chóng nhưng chưa thành lập được chính quyền vì chưa bố trí được cán bộ ([15]). Do đó, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên cử đồng chí Hồ Nhã Tránh([16]) xuống giúp tỉnh Đồng Nai Thượng thành lập chính quyền. Sáng ngày 28 tháng 8 năm 1945, đồng chí Hồ Nhã Tránh trên đường xuống huyện Di Linh đã đến các địa bàn: Phú Hội, Gia Thạnh, La Ba gặp các ông Cao Kỳ Nguyên([17]), Hai Lễ, Trương Văn Dần bàn kế hoạch và huy động thêm lực lượng. Theo phân công, ông Cao Kỳ Nguyên cùng ông Hai Lễ và ông Trương Văn Dần đi vận động quần chúng mang thêm cờ, biểu ngữ, chuẩn bị xe và người tham gia. Trưa ngày 28 tháng 8 năm 1945, gần 100 đồng bào Phú Hội, Gia Thạnh, La Ba do ông Cao Kỳ Nguyên dẫn đầu, cùng với đồng chí Hồ Nhã Tránh và lực lượng quần chúng của thị xã Đà Lạt, huyện Đơn Dương đi trên 3 xe theo đường quốc lộ 20 xuống thị trấn Di Linh. Ta cho xe chạy quanh thị trấn Di Linh, vừa biểu dương lực lượng, vừa tuyên truyền chính sách của Việt Minh, kêu gọi quần chúng tham dự mít tinh. Chiều ngày 28 tháng 8, tại sân vận động thị trấn Di Linh, hàng trăm công chức, thanh niên, đồng bào các dân tộc dự mít tinh. Đồng chí Hồ Nhã Tránh thông báo cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trong cả nước, chính quyền ở tỉnh Đồng Nai Thượng đã về tay nhân dân và giới thiệu Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Đồng Nai Thượng.

Thành công của cách mạng tháng 8 năm 1945 ở huyện Đức Trọng đã chứng minh tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc trong huyện. Đó là vốn quý, là tài sản chung vô giá, không có gì sánh nổi mà mỗi người chúng ta hôm nay và mai sau có trách nhiệm giữ gìn, phát huy, làm cho tinh thần đó ngày càng đơm hoa, kết trái.

Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến tồn tại mấy ngàn năm ở nước ta, lập nên chính quyền dân chủ nhân dân, đưa nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, đưa người Việt Nam từ thân phận người mất nước, làm nô lệ trở thành người tự do, làm chủ vận mệnh của đất nước, của dân tộc và làm chủ bản thân mình. Từ đây, nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng nói riêng, càng tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu cao ý chí và quyết tâm xây dựng và nâng cao sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đói nghèo và lạc hậu, tích cực chuẩn bị kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương II

HUYỆN ĐỨC TRỌNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)

 

I. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG

Ngay sau cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong cách mạng tháng Tám, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập từ Trung ương đến địa phương và cơ sở nhưng đứng trước những thử thách, quyết liệt. Đối với huyện Đức Trọng, chính quyền nhân dân vừa mới ra đời, còn rất non trẻ, chưa có kinh nghiệm trong tổ chức quản lý, chỉ đạo điều hành. Chính quyền cũ tuy đã bị xoá bỏ nhưng một số tên tay sai vẫn còn lén lút hoạt động. Quân đội phát xít Nhật đóng ở sở mủ ngo, sân bay Liên Khàng vẫn còn đông, chúng chưa chịu giao nộp vũ khí cho cách mạng, chế độ thống trị của thực dân, phong kiến để lại hậu quả rất nghiêm trọng, kinh tế - xã hội của địa phương nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, thiếu thốn.

Để nhanh chóng giải quyết khó khăn, thực hiện từng bước chương trình của Mặt trận Việt Minh, được sự chi viện, giúp đỡ của chính quyền cách mạng tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng, sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban nhân dân cách mạng quận D’Ran([18]), chính quyền cách mạng ở huyện Đức Trọng đã thi hành hàng loạt các chủ trương, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn; hưởng ứng phong trào “diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm”([19]), vận động nhân dân hăng hái tham gia lao động sản xuất, tích cực phòng gian, bảo mật… sớm ổn định tình hình đời sống mọi mặt của nhân dân và chuẩn bị các điều kiện xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Chính quyền cách mạng tuyên bố giải tán bộ máy chính quyền cũ, bãi bỏ thuế thân, xoá bỏ các giao kèo, khế ước, tuyên bố thực hiện sắc lệnh giảm tô, giảm tức, thực hiện bình đẳng nam nữ, mọi công dân đều có quyền bầu cử, ứng cử. Kêu gọi nhân dân đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, vận động quần chúng thành lập các tổ tự quản trong công nhân để tham gia quản lý xí nghiệp, công sở, đồn điền, tiếp tục sản xuất.

Cùng với xây dựng chính quyền cách mạng, các đoàn thể quần chúng như thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nông dân cứu quốc… được thành lập và đi vào hoạt động, góp phần xây dựng và phát triển thực lực cách mạng trên địa bàn các thôn, xã trong huyện.

Đi đôi với đẩy mạnh phong trào sản xuất, khắc phục khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân, chính quyền và các đoàn thể trong huyện tích cực vận động nhân dân hưởng ứng phong trào xây dựng “quỹ độc lập”, “tuần lễ vàng”, “tuần lễ đồng” để mua sắm và sản xuất vũ khí, phục vụ chiến đấu, bảo vệ chính quyền, bảo vệ độc lập của Tổ quốc. Với tinh thần yêu nước, hàng trăm đồng bào huyện Đức Trọng đã tự nguyện góp tiền, vàng và đồng cho cách mạng, có người đã hiến những bộ lư đồng thờ cúng ông bà cho chính quyền cách mạng. Đó là những tấm lòng vàng, là tình cảm vô giá của nhân dân đối với cách mạng.

Phong trào diệt “giặc dốt” được chính quyền hết sức quan tâm tổ chức, hình thành các trường học để thu nhận học sinh là con em nhân dân lao động. Trong chương trình giáo dục đã đưa những nội dung tiến bộ và cách mạng của Việt Minh vào giảng dạy, trong đó chú trọng dạy tiếng Việt cho học sinh…

Chính quyền cơ sở còn cử người về tận thôn, xóm, phối hợp với các đoàn thể quần chúng vận động mọi người tham gia học tập. Phong trào “bình dân học vụ”, xoá mù chữ diễn ra sôi nổi ở khắp nơi. Người biết chữ dạy người chưa biết chữ, người biết chữ nhiều dạy người biết chữ ít, người không biết chữ học người biết chữ, học để hiểu biết, học để phụng sự cách mạng. Phong trào luyện tập quân sự, thể dục thể thao, văn nghệ được tổ chức rộng khắp.

Song song với các mặt công tác trên, nhiệm vụ xây dựng các đơn vị tự vệ vũ trang được đặc biệt chú trọng. Các đội tự vệ vũ trang được xác định rõ nhiệm vụ tuần tra canh gác, bảo đảm an ninh trật tự, sẵn sàng trấn áp bọn tay sai, phản động, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền.

Các đội tự vệ vũ trang được sự giúp đỡ, tham gia tích cực của quần chúng, đã bắt giam, trừng trị những tên Việt gian tay sai có nợ máu với nhân dân. Đối với quân Nhật, đại diện chính quyền cách mạng đã nói rõ chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt minh, kêu gọi chúng giao vũ khí, kho xưởng cho cách mạng.

Hoạt động sôi nổi, có hiệu quả của lực lượng tự vệ đã gây nhiều tình cảm và thu hút đông đảo thanh niên nam, nữ tham gia. Chỉ tính riêng đội tự vệ La Ba, thời kỳ này đã có một đại đội, trong đó có một trung đội nữ do đồng chí Trương Thị Nguyên phụ trách. Đội đã cử người tham gia lớp bồi dưỡng quân sự ngắn ngày ở Đà Lạt, D’Ran để về tổ chức huấn luyện cho lực lượng.

Sau khi đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất của phát xít Nhật bị Hồng quân Liên Xô tiêu diệt ở Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Quân đội Anh dưới danh nghĩa quân đồng minh đã vào nước ta để giải giáp quân Nhật.

Thực dân Pháp tuy bị thất bại nhục nhã nhưng với bản chất xâm lược và hiếu chiến, quân Pháp núp bóng quân Anh và được quân Anh giúp sức đã buộc quân Nhật phải giao lại các vùng đang chiếm đóng và tước vũ khí, giải tán lực lượng vũ trang của ta.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn; ngày 26 tháng 9, chiến sự lan đến hai tỉnh Đồng Nai Thượng và Lâm Viên.

Trên địa bàn huyện Đức Trọng, trong cách mạng tháng Tám, khởi nghĩa giành chính quyền, ta đã nhiều lần buộc quân Nhật ở Liên Khàng phải giao nộp toàn bộ vũ khí nhưng thực chất chúng chỉ giao nộp cho ta những súng đã hư hỏng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Nhật một mặt ra sức sửa sang hầm hào, lập thêm đồn bót dọc quốc lộ 21bis, một mặt đưa yêu sách đòi chính quyền cách mạng phải giao nộp vũ khí. Tình hình trên gây cho ta những khó khăn mới.

Ngày 3 tháng 10 năm 1945, quân Nhật đã nổ súng bắn vào đoàn biểu tình của nhân dân thị xã Đà Lạt. Trước hành động ngang ngược của địch, nhân dân thị xã Đà Lạt với tinh thần anh dũng đã quyết tâm chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Lâm Viên quyết định chuyển một trung đội tự vệ La Ba lên vùng thác Cam Ly, sẵn sàng phối hợp với quân và dân thị xã Đà Lạt chiến đấu chống quân Nhật.

Cuối tháng 10 năm 1945, thực dân Pháp chuẩn bị tấn công các tỉnh cực Nam Trung bộ, những tháng cuối năm 1945, tình hình càng trở nên nghiêm trọng, thực hiện quyết định của Ủy ban kháng chiến tỉnh Lâm Viên, một mặt đưa người già, phụ nữ, trẻ em tản cư về vùng M’Lọn (quận D’Ran), Đá Trắng (tỉnh Ninh Thuận); mặt khác gấp rút tập luyện quân sự, xây dựng lực lượng tự vệ chiến đấu, các đơn vị tự vệ tích cực chuẩn bị lương thực, thực phẩm, xây dựng chiến khu PrơTeng để sẵn sàng chiến đấu.

Sáng ngày 9 tháng 11 năm 1945, dưới sức ép của quân Pháp, quân Nhật đưa hơn 40 xe, chở quân từ thành phố Sài Gòn lên đánh chiếm tỉnh Đồng Nai Thượng và tỉnh Lâm Viên. Dọc đường hành quân từ đèo Chuối đến đèo B’Lao (nay là đèo Bảo Lộc) trong hai ngày 11 và 12, quân Nhật bị ta chặn đánh, làm chậm bước tiến của chúng. Khi đến huyện Đức Trọng, chúng tăng cường thêm quân, đóng giữ sân bay Liên Khàng và chuẩn bị đánh chiến khu của ta. Ngày 16 tháng 11, địch mới lên tới thị xã Đà Lạt.

Để đối phó với tình hình trên, cuối tháng 12 năm 1945, tại La Ba, sau khi có thêm lực lượng tự vệ Đa Thành, Tà Nung([20]) về phối hợp; để đảm bảo thống nhất chỉ huy, đủ sức thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ chiến khu, Uỷ ban kháng chiến quyết định sáp nhập các đội tự vệ vũ trang (La Ba, Đa Thành, Tà Nung) thành một đơn vị. Nhiệm vụ của đơn vị này là xây dựng phòng tuyến từ khu vực cây số 40 đến cây số 42 trên đường 21bis (nay là quốc lộ 27), nhằm chặn đánh quân địch từ Liên Khàng vào và từ Buôn Ma Thuột xuống, đồng thời vận chuyển lương thực, thực phẩm từ kho Tà Nung vào. Đơn vị chia thành 3 bộ phận:

Một bộ phận xây dựng phòng tuyến để chặn đánh quân địch từ Buôn Ma Thuột xuống.

Một bộ phận do đồng chí Trần Phát chỉ huy ém quân tại khu vực cầu Đạ Đờn đánh địch trên hướng từ Liên Khàng vào La Ba.

Một bộ phận cảm tử gồm 50 đồng chí, kết hợp với bộ phận hậu cứ vừa làm nhiệm vụ bảo vệ kho tàng, vừa sẵn sàng chiến đấu, khi cần thiết sẽ chi viện cho hai mũi phía trước.

Tình hình và nhiệm vụ lúc này rất nặng nề, khẩn trương. Lực lượng của ta vừa ít, vừa phân tán và phải phân công một số cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trinh sát, nắm tình hình của địch phục vụ cho Ban chỉ huy quân sự quận D’Ran (nay là huyện Đơn Dương). Nhưng do làm tốt công tác tổ chức và tư tưởng, tinh thần anh em cán bộ, chiến sĩ lúc này rất cao, ai cũng muốn được tham gia trực tiếp đánh giặc, mọi mặt công tác xây dựng đơn vị, xây dựng chiến khu sẵn sàng chiến đấu đều thực hiện tốt.

Trong những ngày tháng gian nan phải đối phó với kẻ thù, nhưng chính quyền các cấp trong huyện đã tích cực hướng dẫn, tổ chức cho nhân dân chuẩn bị và tiến hành bầu cử Quốc hội. Ngày 06 tháng 01 năm 1946, nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng nêu cao ý chí thống nhất, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng đã hăng hái tham gia bầu cử. Nhiều nơi cuộc bầu cử diễn ra trong vòng vây của quân thù, nhưng đồng bào vẫn đi bỏ phiếu([21]). Kết quả bầu cử: đồng chí Ngô Huy Diễn là đại biểu tỉnh Lâm Viên và đồng chí Hồ Nhã Tránh là đại biểu tỉnh Đồng Nai Thượng trúng cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự và kinh tế, do đó việc đánh chiếm tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng là một mục tiêu chiến lược trong chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Ngày 27 tháng 01 năm 1946, sau khi đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn khoảng 140 xe quân sự, theo đường 20 từ thành phố Sài Gòn lên đánh chiếm tỉnh Đồng Nai Thượng và tỉnh Lâm Viên. Quân Pháp phối hợp với lực lượng Nhật ở Liên Khàng, Đà Lạt, chia thành nhiều hướng đánh vào các tuyến phòng thủ của ta ở Trại Mát, Phi Nôm, cây số 42 đường số 8. Tuy lực lượng ít, vũ khí trang bị thô sơ và chưa quen lối đánh chốt chặn, phòng ngự nhưng với tinh thần chiến đấu anh dũng, quân ta đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch.

Ở phòng tuyến Phi Nôm, gần một tiểu đoàn địch có xe tăng, pháo binh yểm trợ đã bị quân ta chặn đánh quyết liệt, địch phải dùng xe tăng, pháo binh và hoả lực mạnh bắn xối xả vào trận địa. Lực lượng của ta lợi dụng hệ thống giao thông hào đánh trả, bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Sau hơn một ngày đêm chiến đấu, ta tạm thời rút quân, vừa di chuyển, vừa phản kích gây cho địch nhiều thiệt hại.

Ở các hướng, tự vệ của ta được quần chúng giúp sức đốn ngả cây, bố trí chướng ngại vật và tổ chức chặn đánh, làm chậm bước tiến của quân địch. Các chiến sĩ tự vệ còn giúp đỡ đồng bào tản cư xuống D’Ran an toàn. Để bảo toàn lực lượng, phục vụ kháng chiến lâu dài, các cơ quan của tỉnh, các đơn vị lực lượng vũ trang được lệnh rút về tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận để xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị các điều kiện sau này trở về địa phương cùng nhân dân, tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ, chống thực dân Pháp xâm lược. Từ đây, lực lượng vũ trang của ta ở La Ba mất liên lạc với cấp trên, một số cán bộ, chiến sĩ hoang mang, dao động, bỏ đơn vị. Số còn lại khoảng 60 đồng chí rút vào PrơTeng lập căn cứ, tiếp tục hoạt động và tìm cách móc nối liên lạc với cấp trên.

Ở Phú Sơn, bộ phận chặn đánh địch tại cầu Đạ Đờn của đồng chí Trần Phát được lệnh phá cầu, rút toàn bộ lực lượng về tăng cường hướng Tây Bắc, chuẩn bị các phương án tiếp tục đánh địch.

Đầu năm 1946, nhằm mở rộng vùng chiếm đóng sau khi tái chiếm tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng, thực dân Pháp đã ráo riết đánh phá phong trào cách mạng ở khắp nơi, kể cả trong đô thị, vùng nông thôn và vùng sâu. Cơ sở chính trị của ta mới nhen nhóm từ sau cách mạng tháng Tám không tránh khỏi bị phá vỡ như: Gia Thạnh, La Ba, Phú Hội …

Giữa tháng 2 năm 1946, địch điều một tiểu đoàn lính Lê Dương, do một đại đội lính ngụy người dân tộc thiểu số dẫn đường, mở cuộc tấn công càn quét, nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng tự vệ La Ba. Đoán trước được âm mưu của địch, quân ta chia thành từng phân đội nhỏ, dựa vào địa hình rừng núi để bám, đánh địch; bị ta phục đánh khắp nơi, buổi chiều cùng ngày, địch buộc phải rút khỏi La Ba.

Từ tháng 2 năm 1946 đến tháng 4 năm 1946, thực dân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng và liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá vào chiến khu của ta. Trong thời gian này, đơn vị vũ trang La Ba gặp rất nhiều khó khăn. Một mặt, đơn vị mất liên lạc với cấp trên, đơn vị đã cử nhiều cán bộ về Đà Lạt để bắt liên lạc nhưng đều bị địch phát hiện và bị bắt, do đó đơn vị thiếu người lãnh đạo. Mặt khác, địch thường xuyên lùng sục, bố ráp, ngăn chặn tiếp tế, nguồn lương thực, thực phẩm của đơn vị ngày càng thiếu thốn. Trước tình hình đó, đơn vị phải tự giải tán, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trung kiên vừa làm ăn sinh sống, vừa tìm cách móc nối, liên lạc với cấp trên để tiếp tục hoạt động.

Tuy thời gian hoạt động không được bao lâu (tháng 10 năm 1945 đến tháng 4 năm 1946) nhưng cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang La Ba đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước, nêu cao ý chí quyết tâm, đoàn kết chiến đấu, bảo vệ đất nước, bảo vệ quê hương, bảo vệ thành quả cách mạng. Sau khi bị đứt liên lạc với cấp trên, đơn vị vẫn tiếp tục kiên trì hoạt động, chiến đấu, tìm cách bắt liên lạc. Quá trình xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang La Ba mãi mãi là niềm tự hào, là nét đẹp truyền thống trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc huyện Đức Trọng.

Trước khi Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời và đội tự vệ La Ba bị bao vây, mất liên lạc dẫn đến tự giải tán, tình hình ở Gia Thạnh cũng gặp rất nhiều khó khăn, bọn Việt gian, tay sai phản động ngóc đầu dậy, điên cuồng chống phá cách mạng. Nhiều cán bộ và cơ sở cách mạng ở Gia Thạnh bị địch truy lùng, bị bắt hoặc phải rút vô rừng([22]). Phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng tạm thời lắng xuống.

Đến giữa năm 1946, đồng chí Lê Dũng([23]) ra tù trở về Gia Thạnh. Trong lúc này, địch bắt dân ở La Ba, Gia Thạnh đắp đường 21bis, sửa cầu Đạ Đờn, đồng chí Lê Dũng với tấm căn cước mang tên Lê Khải để hợp pháp hoá, tiếp tục hoạt động. Do khéo vận dụng hình thức công khai, hợp pháp, cuối tháng 7 năm 1946 đồng chí đã móc nối được một số cơ sở ở La Ba, Bồng Lai và Đà Lạt. Đầu tháng 8 năm 1946, qua liên lạc với ông Cao Kỳ Nguyên([24]), đồng chí đã liên lạc được với Ủy ban kháng chiến tỉnh Lâm Viên và nhận chỉ thị về xây dựng phong trào cách mạng ở Gia Thạnh, Phú Sơn. Từ đây, phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng được tiếp nhận sự chỉ đạo của tỉnh. Đến cuối năm 1946, cơ sở cách mạng trong quần chúng đã hình thành, hoạt động ở hầu hết các xã: Gia Thạnh, La Ba, Phú Hội và Phi Nôm, nhất là các xã dọc quốc lộ 20, 21bis và một số vùng đồng bào dân tộc ở La Ba. Đường dây liên lạc giữa huyện Đức Trọng với thị xã Đà Lạt, huyện Đức Trọng với huyện Đơn Dương và các vùng xung quanh được tái lập, đảm bảo hoạt động thông suốt.

Để đẩy mạnh phong trào đô thị ở thị xã Đà Lạt và các vùng ven thị, tháng 1 năm 1947, đồng chí Nguyễn Thế Tính, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Lâm Viên cùng với một số cán bộ và một tiểu đội vũ trang lên thị xã Đà Lạt trực tiếp chỉ đạo phong trào ở thị xã Đà Lạt và huyện Đức Trọng.

Tháng 10 năm 1947, theo quyết định của trên, các đồng chí Nguyễn Thế Tính, Mai Văn Moóc, Vi Hùng, Trường Sơn về tăng cường chỉ đạo phong trào La Ba, chuẩn bị điều kiện xây dựng chiến khu của tỉnh. Sau một thời gian vận động quần chúng tại các làng Gia Thạnh, Phú Mỹ, phong trào nhanh chóng mở rộng đến các thôn Lạc Sơn, Bằng Tiên…

Cuối năm 1947, tại 2 tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng, địch ráo riết dồn dân, xúc dân, càn quét, đánh phá, ngăn chặn các hoạt động của ta. Mạng lưới gián điệp, chỉ điểm của địch phát triển mạnh, hoạt động khắp các vùng nông thôn và ven đô thị. Do có chỉ điểm, địch đưa một trung đội cảnh sát phối hợp với lính đồn La Ba, càn quét đánh vào chiến khu ta, bắt nhiều cán bộ cơ sở. Trong cuộc chiến đấu chống địch càn quét vào chiến khu, một đồng chí của ta tuy bị thương những vẫn đánh cầm chân địch để đồng đội rút lui an toàn.

 Cũng trong thời gian này, năm 1948, tại thôn Gia Thạnh (xã Bình Thạnh), thôn Phú Hội (xã Phú Hội), địch tổ chức nhiều cuộc phục kích, truy lùng cán bộ, cốt cán, cơ sở của ta([25]).

Vượt qua những khó khăn gian khổ, tìm cách duy trì và phát triển phong trào, tháng 7 năm 1948, tiểu đội vũ trang do đồng chí Hoàng Phi Hổ chỉ huy đã bí mật tập kích đồn cảnh sát tại Cầu Đất ( huyện Đơn Dương)([26]). Trong trận này, ta đã giải thoát hàng chục người về bổ sung cho chiến khu La Ba, Đà Lạt. Tuy nhiên, do sự phản bội của tên Chín Vị([27]), trong 2 tháng (tháng 8 và tháng 9 năm 1948), địch liên tiếp bao vây đánh phá chiến khu và đội công tác 500 đóng ở làng Phú Mỹ (xã Phú Sơn). Nhất là trận tập kích bất ngờ vào lúc 5 giờ sáng ngày 25 tháng 9 năm 1948 của địch đã đánh úp chiến khu, nhiều cán bộ cơ sở của ta bị bắt và bị thủ tiêu([28]). Phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng một lần nữa bị đứt liên lạc với cấp trên.

Đầu năm 1949, tình hình tương quan lực lượng giữa ta và địch có nhiều thay đổi, ngày càng có lợi cho ta. Bộ đội chủ lực trên các chiến trường Bắc Bộ và Liên Khu 5 mở nhiều chiến dịch lớn, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc địch từ chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh chuyển sang chiến lược đánh lâu dài.

Ngày 10 tháng 2 năm 1949, Thường vụ Liên Khu uỷ 5 họp xem xét tình hình và nhiệm vụ các tỉnh Cực Nam, hội nghị nhận thấy “Giữa các tỉnh Cực Nam với nhau không có sự liên lạc mật thiết, không có sự phối hợp hành động, trao đổi kinh nghiệm”… “vì liên lạc khó khăn không được sát, phân ban Cực Nam cũng không đủ điều kiện thành lập một cấp chỉ đạo. Do đó, từ công tác Đảng đến các mặt kháng chiến, hành chính, chuyên môn, mỗi tỉnh đều tùy tiện chủ trương” cho phù hợp với tình hình.

Để chấm dứt tình trạng nói trên, Hội nghị ra Nghị quyết “lập một Ban chỉ đạo chung cho các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên và Đồng Nai Thượng”; về chính quyền lập “Phân Ban kháng chiến hành chính Cực Nam” với nhiệm vụ chỉ đạo các tỉnh Cực Nam “hoạt động ở Nha Trang, Cam Ranh, cắt đường giao thông Nha Trang - Sài Gòn và uy hiếp Đà Lạt”.

Thực hiện Nghị quyết Thường vụ Liên Khu uỷ 5, tháng 3 năm 1949, Ban Cán sự Cực Nam được thành lập đến tháng 4 năm 1949 thành lập Ban Cán sự Đảng tỉnh Lâm Viên, đồng chí Lê Tự Nhiên, Uỷ viên Ban Cán sự Cực Nam làm Bí thư. Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Ban Cán sự Đảng tỉnh Đồng Nai Thượng được thành lập, đồng chí Thu Lâm([29]) làm Bí thư.

Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị sâu sắc, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Từ đây, hai tỉnh có tổ chức Đảng ở cấp tỉnh trực tiếp lãnh đạo phong trào, tiếp thu các chủ trương, đường lối của Đảng vận dụng vào tình hình thực tế của địa phương.

Tháng 8 năm 1949, để nhanh chóng khôi phục và phát triển mở rộng phong trào, đơn vị 220 của Trung đoàn 812 được điều động lên tỉnh Đồng Nai Thượng. Các đội công tác vừa tuyên truyền, vận động nhân dân, xây dựng cơ sở, cốt cán cách mạng, vừa làm nhiệm vụ diệt ác, trừ gian. Hướng hoạt động chủ yếu của các đội công tác là đi sâu vào các đồn điền, thị xã và phát triển lên phía Tây, chú trọng vùng đồng bào dân tộc Mạ, vượt qua đường 20 bắt liên lạc với bộ phận ở Đạ Đờn, La Ba làm bàn đạp xoi lên bắt liên lạc với Buôn Ma Thuột và lực lượng Khu 7 (Đông Nam Bộ) để xây dựng căn cứ phục vụ công tác chỉ đạo lâu dài cho cách mạng miền Nam sau này.

Ở Đức Trọng, sau vụ bị địch tập kích ngày 25 tháng 9 năm 1948, số cán bộ cơ sở còn lại trải qua một thời gian dài bị mất liên lạc và gặp nhiều khó khăn, thử thách. Tháng 11 năm 1949, sau khi bộ phận ở Gia Thạnh do đồng chí Lê Dũng phụ trách bắt được liên lạc với Đà Lạt và nhận chỉ thị của trên, cơ sở cách mạng của ta tại các làng Gia Thạnh, La Ba tiếp tục hoạt động.

Tháng 12 năm 1949, một mũi công tác của đại đội “Như Hổ”([30]) đã bắt được liên lạc với bộ phận công tác của đồng chí Phan Như Thạch ở Đà Lạt, qua đó nối được đường dây liên lạc giữa Đà Lạt và khu Chiến Đấu([31]) với Ban cán sự Cực Nam và Ban cán sự Đảng tỉnh Lâm Viên.

Như vậy, đến cuối năm 1949, phong trào cách mạng của khu Chiến Đấu đã có sự chỉ đạo thông suốt, tình hình khó khăn về tổ chức dần dần được khắc phục.

 

II. SỰ RA ĐỜI CỦA CHI BỘ CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN: CHI BỘ GIA THẠNH

Bị thất bại nặng nề trên chiến trường Bắc bộ, thực dân Pháp ráo riết tập trung lực lượng củng cố Tây Nguyên, chúng mở các cuộc hành quân càn quét vào các vùng căn cứ, đàn áp phong trào quần chúng nhằm đánh bật cơ sở cách mạng ra khỏi dân. Trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chúng hình thành các tổ, nhóm vũ trang (gọi là Gum) để sử dụng bọn này thực hiện âm mưu chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc và phá hoại hoạt động của ta, tình hình trên gây không ít khó khăn cho sự phát triển của phong trào cách mạng ở địa phương.

Thực hiện phương châm của Liên Khu uỷ 5 (ngày 10 tháng 2 năm 1949): “Đưa các đội vũ trang tuyên truyền lên hoạt động trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số để xây dựng cơ sở cách mạng”, sau khi đại đội độc lập vùng Tây Bắc tỉnh Lâm Đồng từ tỉnh Ninh Thuận xoi lên, hoàn thành nhiệm vụ bắt liên lạc với thị xã Đà Lạt, bước đầu xây dựng được một số cơ sở, bảo đảm liên lạc với khu Chiến Đấu([32]). Tháng 3 năm 1950, theo sự chỉ đạo của đồng chí Trần Oanh, Đội vũ trang tuyên truyền, do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn phụ trách tách thành hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất do đồng chí Lê Trần Thái chỉ huy ở lại xây dựng phong trào thị xã Đà Lạt; bộ phận thứ hai dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Đinh Sĩ Uẩn về khu Chiến Đấu xây dựng phong trào và xây dựng bàn đạp hỗ trợ cho thị xã Đà Lạt.

Sau khi về khu Chiến Đấu, tìm bắt liên lạc được với bộ phận của đồng chí Lê Dũng ở làng Gia Thạnh, bộ phận của đồng chí Đinh Sĩ Uẩn, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở, chuẩn bị điều kiện mở rộng hoạt động ra các vùng xung quanh, Đội tiếp tục phát triển lên xã Phú Sơn, chủ yếu bám số cơ sở ở xã Đinh Văn để hoạt động, mở ra các xóm dân tộc ở các buôn Xoan, Đạ Huynh và Gia Thạnh. Đội đã chú trọng công tác xây dựng, đào tạo cốt cán, tuyên truyền, tổ chức quần chúng tham gia thành lập các đoàn thể cách mạng: Thanh niên liên hiệp, Phụ nữ liên hiệp… hoạt động với khí thế mạnh mẽ. Bọn tề điệp, hương lý ở đây không dám ra mặt chống đối. Qua phong trào, một số cơ sở, cốt cán cách mạng ở Gia Thạnh, Phú Sơn trưởng thành và vinh dự được kết nạp Đảng.

Giữa năm 1950, đáp ứng yêu cầu phát triển của phong phong trào cách mạng ở địa phương, một sự kiện lịch sử đánh dấu thời kỳ trưởng thành về chất và lượng của phong trào cách mạng ở khu Chiến Đấu. Đó là sự ra đời của chi bộ cộng sản Gia Thạnh, gồm 4 đảng viên: đồng chí Lương Bành làm Bí thư chi bộ. Vừa ra đời, chi bộ Gia Thạnh cùng với chi bộ đội công tác do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn làm Bí thư đã xây dựng thêm nhiều cơ sở ở Phú Hội, Phú Sơn và trong công nhân làm việc ở sân bay Liên Khàng. Những hoạt động của chi bộ gây được uy tín và thu hút đông đảo quần chúng hăng hái tham gia đóng góp cho kháng chiến, bảo vệ và phát triển lực lượng cách mạng.

Đến cuối năm 1950, trên đà phát triển của cách mạng, ta đã kết nạp được 6 đảng viên, đặc biệt ở Gia Thạnh ta đã kết nạp được 01 đảng viên là người dân tộc thiểu số.

Phong trào đang trên đà phát triển thuận lợi, tháng 5 năm 1951, có người trong cơ sở ở Gia Thạnh phản bội, dẫn địch ở quận D’Ran về đánh úp trong khi chi bộ đang họp. Trong trận này, hai cán bộ chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh. Địch bắt toàn bộ số đảng viên chi bộ Gia Thạnh, số cơ sở còn lại bị vỡ, bị địch khống chế và chúng ra sức tiến hành kế hoạch dồn dân ở các làng Gia Thạnh, Phú Sơn về Trại Mát, các làng dân tộc bị dồn ra dọc đường 21 bis.

Quá trình ra đời, đấu tranh và tồn tại của chi bộ Gia Thạnh tuy không được bao lâu, song cán bộ, đảng viên trong chi bộ đã nêu cao gương đấu tranh cách mạng kiên cường, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng Gia Thạnh làm chỗ dựa, bàn đạp để phát triển phong trào cách mạng, tạo điều kiện cho hoạt động của đội vũ trang tuyên tuyền, phát triển nhanh chóng cơ sở ra các vùng xung quanh. Cán bộ, đảng viên chi bộ có những đóng góp quan trọng trong lãnh đạo và vận động quần chúng, trước hết là sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân, đảm bảo phục vụ nhiệm vụ nuôi dấu và bảo vệ lực lượng cách mạng. Vai trò, vị trí và sự đóng góp của chi bộ Gia Thạnh, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đời sống chính trị của nhân dân các dân tộc trong huyện Chiến Đấu([33]): Đó là Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở huyện Chiến Đấu, nay là huyện Đức Trọng.

 

III. CÙNG NHÂN DÂN TRONG TỈNH VÀ CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP THẮNG LỢI.

Cuối năm 1950, huyện Chiến Đấu có dân số lên tới 10.000 người, thuộc bốn tổng. Để tăng cường thế kìm kẹp lực lượng tại đây, địch tổ chức đóng 5 đồn lớn với gần 200 quân, mỗi đồn có từ 1 đến 2 sĩ quan người Pháp chỉ huy. Ngoài ra, số quân lưu động của quận D’Ran và Di Linh đảm nhiệm thường xuyên tuần tiễu các làng Phi Tách, Kon Rang. Ngoài lực lượng chủ lực trong vùng đồng bào dân tộc, địch chú trọng phát triển hệ thống tổ, nhóm vũ trang (Gum), tổ chức lùng sục, phát hiện, đánh phá các kho tàng và phục kích, chặn đánh các bộ phận nhỏ, lẻ của ta.

Về hành chính: Để tiện việc kiểm soát và thực hiện âm mưu chia rẽ các dân tộc, địch lập hệ thống, bộ máy ngụy quyền theo đặc điểm từng vùng, người Kinh hoặc người dân tộc thiểu số, chúng còn đặc biệt chú ý nâng đỡ một số tên tay sai là người dân tộc, bên cạnh viên công sứ là người Pháp, chúng đặt chức Phó sứ là người dân tộc. Tại các tổng, làng có đồng bào dân tộc sinh sống, địch sắp đặt, giao quyền hành cho người dân tộc nắm giữ.

Về chính trị: Địch dùng nhiều thủ đoạn thâm độc tuyên truyền xuyên tạc đường lối kháng chiến của Đảng ta, gieo rắc tư tưởng cầu an, hưởng lạc trong nhân dân. Ngày 15 tháng 5 năm 1950, theo sự mặc cả chính trị, thực dân Pháp để Bảo Đại lập chế độ tự trị: “Hoàng triều cương thổ”. Chúng dùng kinh tế để lôi kéo, mua chuộc quần chúng, phát triển các tôn giáo: Cao Đài, Phật giáo, Công giáo, Tin lành, lập thêm nhiều nhà giảng đạo, mở các trường đào tạo thầy giảng, mục sư, chức sắc tôn giáo là người địa phương, nhất là triệt để lợi dụng đạo Tin lành làm công cụ dụ dỗ nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc. Đi đôi với tăng cường các hoạt động gián điệp, tay sai chỉ điểm, tìm cách luồn sâu hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc nắm các già làng, kiểm soát hoạt động hội tề, gom dân để dễ bề lôi kéo, kiểm soát nhân dân.

Về kinh tế: Chúng đặt thêm nhiều thứ thuế như thuế an ninh, thuế chợ, thuế Bảo Đại… tăng cường bắt xâu, phạt vạ, kiểm tra việc buôn bán, vận chuyển lương thực hòng ngăn chặn tiếp tế, cô lập vùng chiến khu của ta.

Giữa năm 1950, Liên Khu ủy 5 cử đoàn cán bộ vào kiểm tra tình hình, sau khi nghe đoàn kiểm tra báo cáo tình hình các tỉnh cực Nam, Liên Khu ủy nhận định: “tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng có vị trí chiến lược quan trọng, là chiến trường chính của cực Nam, nhưng là chiến trường gây cơ sở” và quyết định sáp nhập 2 tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Tháng 10 năm 1950, hội nghị hợp nhất 2 tỉnh để thành lập tỉnh Lâm Đồng họp tại vùng Ôrô, thuộc chiến khu Lê Hồng Phong (tỉnh Bình Thuận) và đổi tên khu Chiến Đấu thành huyện Chiến Đấu.

Hội nghị đã bầu đồng chí Nguyễn Xuân, ủy viên Ban cán sự Cực Nam làm Bí thư Ban cán sự, kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và chính trị viên tỉnh đội.

Sau hội nghị, Ban cán sự tỉnh đã tập trung chỉ đạo việc xây dựng và sắp xếp, củng cố các đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh thành 6 đội vũ trang tuyên truyền, biên chế mỗi đội từ 20 đến 30 người, phân công hoạt động xây dựng ở các địa bàn. Riêng hai đội: “đội thứ ba tiến lên hướng Tây Bắc Đà Lạt, Liên Khàng, La Ba và bắt liên lạc với tỉnh Đăk Lăk; đội thứ tư hoạt động vùng M’Lọn đến DRan”. Như vậy, từ cuối năm 1950, với việc tập trung chỉ đạo xây dựng, sắp xếp, củng cố các đội vũ trang tuyên truyền, một lần nữa khẳng định nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng và mối liên hệ không thể tách rời giữa phong trào cách mạng của huyện Chiến Đấu với phong trào cách mạng của đô thị Đà Lạt.

Sau khi chi bộ Gia Thạnh bị địch đánh úp (tháng 5 năm 1951), bắt toàn bộ số đảng viên của chi bộ và ráo riết tăng cường các hoạt động bố ráp, truy lùng, khủng bố cơ sở, cốt cán cách mạng còn lại nhưng đội công tác do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn phụ trách vẫn kiên trì bám trụ hoạt động, xây dựng, củng cố cơ sở, đội đã chia thành 5 tổ công tác, đi xây dựng và phát triển phong trào ở các địa bàn: Phú Hội, Nam Ban - Hoạch - Tà Nung, Đạ Huynh, Phú Sơn, PrơTeng, Phi Liêng, Đam Rông và công nhân làm việc trong sân bay Liên Khàng.

Để phát triển lực lượng, ta chủ trương thông qua hoạt động tuyên truyền, xây dựng cơ sở để vận động một số thanh niên thoát ly, bổ sung lực lượng cho đội. Về vũ khí, đội chuẩn bị các phương án tổ chức chặn đánh từng toán lính đi tuần, lấy vũ khí địch để tự trang bị. Song, do có chỉ điểm nên kế hoạch của ta chưa kịp thực hiện, địch ở D’Ran đã tung quân lùng sục, bắt một số thanh niên cơ sở có cảm tình với cách mạng và tăng cường cài cắm tay sai chỉ điểm, hòng cắt đứt liên lạc giữa đội công tác với cơ sở cách mạng và quần chúng.

Trước tình hình đó, đội công tác họp phân tích tình hình: Tuy địch ra sức đánh phá, khủng bố nhưng cơ sở của ta vẫn được xây dựng và phát triển ở nhiều nơi, song chủ yếu trong vùng người Kinh, ở vùng đồng bào dân tộc ta chưa chú ý đúng mức, cơ sở cách mạng còn yếu, chất lượng còn thấp. Nhiều ý kiến nhấn mạnh, cần phải tạo thế áp đảo địch, tạo tiếng vang và phối hợp với phong trào cách mạng ở các nơi khác. Qua bàn bạc, đội thống nhất chọn phương án đánh vào cụm điện đài chỉ huy sân bay của địch tại đồn Rađiôpha ở CôngTắcTía. Đây là cụm điện đài phục vụ sân bay Liên Khàng, tại đây địch thường xuyên bố trí một trung đội lính đóng giữ, do một viên sĩ quan người Pháp chỉ huy. Để đảm bảo thắng lợi, tiểu đội vũ trang đã luồn sâu, áp sát vị trí địch đóng quân. Khoảng 8 giờ sáng, lợi dụng lúc địch sơ hở, ta nổ súng tấn công. Địch bị đánh bất ngờ, hoảng loạn nhưng sau đó chúng tổ chức phản kích quyết liệt. Để đảm bảo an toàn cho đồng đội trong khi ta rút quân, đồng chí Hồ Tá Đinh([34]) tuy bị thương nặng vẫn đánh chặn, ngăn cản địch truy kích và đồng chí đã anh dũng hy sinh. Trận này ta tiêu diệt 2 tên địch, thu nhiều súng và nhiều quân trang của địch, cụm điện đài bị phá hỏng.

Trận đánh vào trung tâm điện đài sân bay Liên Khàng đã nhanh chóng gây ảnh hưởng lớn trong vùng đồng bào dân tộc. Sau trận này, đội phát triển mạnh lên phía Bắc Phú Sơn, xây dựng cơ sở cách mạng trong các buôn Phi Liêng, Phi Á… Trong quá trình phát triển sang Lang Bian, ngày 10 tháng 2 năm 1951, được sự ủng hộ của đồng bào, đội vũ trang tuyên truyền đã trừng trị tên Bang Tá K’Xuây tại buôn R’Lơm, thu 2 súng và bắt một tên ra chiến khu giáo dục, sau này trở thành cơ sở cách mạng. Song song với các hoạt động diệt tề, trừ gian, ta tổ chức xây dựng, củng cố các đoàn thể hoạt động trở lại, tranh thủ lôi kéo, cảm hóa một số hội, tề và những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.

Những tháng đầu năm 1951, địch tăng cường các hoạt động quân sự kết hợp với chính trị, kinh tế, phản công phong trào cách mạng ở huyện Chiến Đấu, tình hình hoạt động của đội công tác đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Quần chúng bị địch thúc ép, dồn làng, ta mất nhiều cơ sở, một số cán bộ, chiến sĩ đột ấp bị hy sinh; địch dùng tay sai phản động nói xấu, bôi nhọ chính sách Việt Minh, thực hiện âm mưu đánh phá ta từ hai phía (từ ngoài đánh vào và từ trong đánh ra). Tuy nhiên, nhờ đảm bảo được mối liên lạc, sự chỉ đạo của trên, với tinh thần anh dũng, kiên trì, bám dân xây dựng cơ sở, phong trào cách mạng của huyện Chiến Đấu từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951 phát triển mạnh. Lực lượng dân quân du kích ở Phú Sơn, Phú Hội, Gia Thạnh tổ chức các hoạt động diệt tề, trừ gian sôi nổi, làm cho địch vô cùng hoang mang, lo sợ, buộc chúng phải tập trung lực lượng để đối phó.

Đi đôi với nhiệm vụ xây dựng bàn đạp, nhằm tăng cường lãnh đạo, chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ bắt liên lạc với chiến trường Tây Nguyên, tháng 8 năm 1951, đồng chí Chế Đặng và đồng chí Chấn được Liên Khu ủy 5 cử về bổ sung đội vũ trang tuyên truyền huyện Chiến Đấu. Thời gian này, được sự nhất trí của cấp trên, đội vũ trang tuyên truyền huyện Chiến Đấu chính thức được thành lập (tháng 8 năm 1951) gồm 40 đồng chí, được tổ chức thành 5 đội vũ trang tuyên truyền, mỗi đội có một chi bộ Đảng do đồng chí Đội trưởng kiêm Bí thư chi bộ. Địa bàn hoạt động chủ yếu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, được phân công cụ thể như sau: Một đội bám dân xây dựng cơ sở tại các làng Hoạch, Nam Ban, Prijông Tô; một đội hoạt động vùng Phú Hội; một đội hoạt động từ phía Bắc sông Đạ Đờn lên Phi Liêng; một đội ở Đầm Roòng và một đội hoạt động hướng đường 20 (K’Long) phát triển qua phía Bắc để liên lạc với tỉnh Đăk Lăk.

 Cùng thời gian này, Ban cán sự Đảng tỉnh Lâm Đồng tiếp tục tăng cường đồng chí Mai Huy Hoàng, Ủy viên Ban cán sự cùng với một số cán bộ, chiến sĩ lên tăng cường cho huyện Chiến Đấu. Đồng chí Mai Huy Hoàng phụ trách đội công tác hoạt động dọc đường 20, thay đồng chí Lê Dũng chuyển sang đội công tác của đồng chí Đào Khắc Độ.

Vào những tháng đầu năm 1951, nhất là sau vụ tên Haasz, một tên mật thám khét tiếng ở Đà Lạt bị ta trừng trị, địch điên cuồng đánh phá, lùng sục khủng bố khắp nơi. Tại huyện Chiến Đấu, lực lượng địch được tăng cường từ Buôn Ma Thuột xuống tổ chức những cuộc càn quét, đánh phá vùng Nam Ban, Prijông Tô… Sau mỗi lần càn quét, chúng bố trí một bộ phận ở lại phục kích trên các con đường lực lượng ta thường xuyên qua lại.

Thực hiện âm mưu “tát nước, bắt cá”, chúng thường xuyên tổ chức các cuộc khủng bố, đe dọa quần chúng, tiến hành nhiều đợt xúc dân, dồn dân từ Nam Ban về Tà Nung, các làng Chil, Phi Sơrôn, Bằng Tiên, Prijông Tô về Côi Gia, từ Chil Kut về Phi Đăng… để tạo thế kìm, chúng xây dựng, củng cố lực lượng lính địa phương quân đến tận thôn, ấp, trang bị thêm súng, đạn. Chỉ tính riêng tổng Đinh Văn, lực lượng lính địa phương quân đã có một trung đội được trang bị 30 súng các loại; ở tổng LangBian, địch giao thêm nhiều súng mới cho lính địa phương. Đi đôi với tăng cường lực lượng và vũ khí, địch còn tăng cường lợi dụng tôn giáo, mở rộng các hoạt động tôn giáo, xây dựng thêm nhiều nhà thờ, nhà giảng đạo; chúng ra sức mua chuộc, lôi kéo một số thanh niên người dân tộc vào các tổ, nhóm vũ trang (Gum) để chống phá phong trào cách mạng, khống chế quần chúng, bằng thủ đoạn lợi dụng tâm lý thích săn bắn và chống thú rừng phá hoại nương rẫy, mùa màng của người dân tộc để cho mượn súng, nhất là trong số thanh niên, dần dần dụ dỗ, lôi kéo họ theo chúng, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất trong việc tiếp cận, tuyên truyền, vận động giác ngộ cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Riêng trên đường 20, đội công tác do đồng chí Lê Dũng phụ trách đạt nhiều kết quả tốt. Tại thôn Định An, qua vận động quần chúng, ta đã xây dựng được cơ sở trong một gia đình người Pháp, tên là Hoét - kỹ sư lục lộ đã nghỉ hưu, vợ là người Việt([35]). Từ  cơ sở này, đồng chí Lê Dũng đã móc nối thêm một số cơ sở ở Phú Hội, M’Lọn thành lập đường dây tiếp tế lương thực, thực phẩm cho các đội công tác của huyện Chiến Đấu và các cơ quan của thị xã Đà Lạt.

Quán triệt phương châm công tác vùng sau lưng địch, tháng 9 năm 1951, Hội nghị Ban cán sự Cực Nam xác định: “Lâm Đồng là chiến trường chính của cực Nam, nhưng là chiến trường xây dựng cơ sở. Vì vậy, phải vận dụng phương châm, phương thức hoạt động mới, kế hoạch hoạt động được tập trung theo hai hướng: Hướng chính gồm Đà Lạt, vùng Tây Bắc và bàn đạp Anh Dũng; hướng phụ là Di Linh, B’Lao”([36]).

Tháng 11 năm 1951, đồng chí Nguyễn Xuân, ủy viên Ban cán sự Cực Nam và đồng chí Trần Ngọc Trác, ủy viên Thường vụ Ban cán sự Lâm Đồng được cử lên vùng Tây Bắc Đà Lạt để phổ biến, triển khai chủ trương chuyển hướng hoạt động theo tinh thần Nghị quyết của Ban cán sự Cực Nam. Đợt học tập, quán triệt chủ trương của Liên khu ủy 5, Ban cán sự Cực Nam được tổ chức tại chiến khu Đà Lạt, bao gồm cán bộ, chiến sĩ thị ủy Đà Lạt và các đội vũ trang tuyên truyền huyện Chiến Đấu về dự.

Trong tình hình mới, nội dung cơ bản của chủ trương chuyển hướng hoạt động đối với huyện Chiến Đấu là: “Kiên trì vận động cách mạng, tiến hành gây cơ sở”, hội nghị cũng phê phán những hành động diệt ác, diệt tề, trừ gian ồ ạt, tràn lan, sớm bộc lộ lực lượng, không phù hợp ý đồ xây dựng “chiến trường gây cơ sở”.

Hội nghị đã quán triệt và khẳng định: Tây Bắc Lâm Đồng (chủ yếu là huyện Chiến Đấu và thị xã Đà Lạt) là hướng chính của Lâm Đồng. Hội nghị quyết định: Giải tán các đội vũ trang để thành lập các đội xây dựng cơ sở hoạt động sâu trong quần chúng, đặc biệt chú ý vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo huyện Chiến Đấu và thị xã Đà Lạt, cuối năm 1951, Ban Cán sự tỉnh Lâm Đồng quyết định thành lập Phân ban cán sự vùng Tây Bắc Lâm Đồng để chỉ đạo, gồm các đồng chí: Trần Ngọc Trác (Bí thư) và các ủy viên: Mai Huy Hoàng, Đinh Sĩ Uẩn, Nguyễn Tự. Một thời gian sau bổ sung đồng chí Tống Viết Khánh. Đồng chí Trần Oanh, Bí thư thị xã Đà Lạt về chiến khu Lê Hồng Phong (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) để dự chỉnh huấn, đồng chí Thu Lâm kiêm Bí thư thị xã Đà Lạt và chỉ đạo đội công tác 122([37]) xây dựng cơ sở trong đồng bào Kinh, tạo ngoại vi cho Đà Lạt. Các đồng chí Đinh Sĩ Uẩn, Mai Huy Hoàng, Nguyễn Tự chịu trách nhiệm huyện Chiến Đấu.

Sang đầu năm 1952, theo tinh thần hội nghị, các đội vũ trang tuyên truyền của huyện Chiến Đấu được tổ chức lại thành 4 đoàn xây dựng cơ sở, hoạt động chủ yếu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Hoạch, Nam Ban, Prijông Tô… Trong đó, đội do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn làm Đội trưởng, đồng chí Chế Đặng làm Đội phó có nhiệm vụ hoạt động xoi lên phía Tây Bắc thị xã Đà Lạt, tìm cách bắt liên lạc với tỉnh Đăk Lăk.

Đội 122 do đồng chí Đào Khắc Độ làm đội trưởng, đồng chí Lê Dũng đội phó hoạt động chủ yếu trong các làng người Kinh dọc đường 20 và đường 11([38]).

Sau một thời gian vận dụng phương thức hoạt động mới, huyện Chiến Đấu đã xây dựng được cơ sở ở 24 làng. Tại các làng Kinh dọc đường 20, ta xây dựng được 120 cơ sở, trong đó, có nhiều cơ sở trung kiên. Trong thời gian này, tuy địch tăng cường các hoạt động càn quét, khủng bố, song cán bộ, chiến sĩ huyện Chiến Đấu vẫn kiên trì bám dân, tiếp tục hoạt động nên giữa năm 1952, tại Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn Liên khu 5, Ủy ban kháng chiến Nam Trung bộ đã trao tặng cờ danh dự cho đội công tác La Ba với dòng chữ: “Kiên trì bám cơ sở, mở rộng phong trào hoạt động cách mạng trong đồng bào dân tộc”.

Từ cuối năm 1951 và trong năm 1952, cán bộ, chiến sĩ vùng Tây Bắc Lâm Đồng đứng trước những khó khăn mới trong việc giải quyết tình trạng thiếu lương thực kéo dài. Nguồn tiếp tế từ Ban cán sự Cực Nam, Ban cán sự tỉnh Lâm Đồng cho hướng Tây Bắc, trước đây chủ yếu dựa vào nguồn cung cấp chính từ tỉnh Bình Thuận đã bị gián đoạn từ lâu. Bên trong, địch ráo riết truy lùng, một số cơ sở của ta bị vỡ, tuy có một số cơ sở mới xây dựng hoặc mới được khôi phục nhưng vấn đề huy động tài chính, tiếp tế lương thực ta chưa thể đặt ra. Trong khi đó, cơn bão ngày 20 tháng 10 năm 1952 đã gây thiệt hại lớn mùa màng và đời sống của nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ huyện Chiến Đấu, đơn vị 300 (cơ quan Phân ban Cán sự vùng Tây Bắc tỉnh Lâm Đồng) và các đội công tác không có nguồn lương thực tiếp tế. Tình trạng thiếu ăn, thiếu muối, bệnh tê phù phát triển mạnh, cán bộ, chiến sĩ các đội công tác phải hái rau rừng ăn thay cơm hàng tháng. Để cứu đói cho cả đơn vị, có đồng chí đã chấp nhận hy sinh hái rau rừng ăn thử như đồng chí Hồng Phát, Thanh Vân([39]).

Nhằm khắc phục tình trạng thiếu lương thực, Phân ban Cán sự Tây Bắc Lâm Đồng đã phát động rộng rãi phong trào sản xuất tự túc. Các đội công tác và các cơ quan huyện Chiến Đấu, Cơ quan 300 tổ chức trồng các loại rau, đậu, khoai lang, chuối nước (giong riềng)…; trong nhân dân thì trồng rau màu, cây lương thực. Cùng với các hoạt động tăng gia sản xuất, công tác thực hành tiết kiệm, động viên mọi cán bộ, chiến sĩ tham gia giải quyết nạn thiếu ăn phát triển mạnh. Nhiều người đã sẵn sàng đóng góp đồng hồ, nhẫn vàng và những vật kỷ niệm để bán, lấy tiền mua lương thực. Biết bao gương chia xẻ, đùm bọc trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã động viên cán bộ, chiến sĩ huyện Chiến Đấu hoàn thành nhiệm vụ của Đảng, của cách mạng giao phó.

Cuối năm 1952, để tập trung công tác chỉ đạo và phối hợp hoạt động giữa các tỉnh Cực Nam, Ban cán sự Cực Nam quyết định giao vùng đất Anh Dũng cho tỉnh Ninh Thuận; B’Lao, Di Linh cho tỉnh Bình Thuận. Riêng Ban cán sự Lâm Đồng tập trung chỉ đạo huyện Chiến Đấu và đô thị Đà Lạt. Đây là một thuận lợi lớn đối với Phân bán cán sự vùng Tây Bắc tỉnh Lâm Đồng.

Để tổ chức thực hiện chủ trương của Ban cán sự Cực Nam là xây dựng, củng cố cơ sở, hướng chính là Tây Bắc, tập trung lực lượng xây dựng, các làng người Kinh và người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc Lâm Đồng làm ngoại vi cho thị xã Đà Lạt: “Xây dựng Tây Bắc thành những căn cứ nhỏ trong lòng nhân dân mà yếu tố chính là nắm dân, đào tạo cán bộ địa phương và giữ bí mật, cùng các bàn đạp đó để tiến lên phía Bắc qua các làng N’Thol Hạ, Yang Lê, Rômen (hướng chính) và từ Tây Bắc tiến xuống M’Lọn (từ trên tiến xuống)”.

Phương thức công tác: “Thực hiện phương châm kiên trì vận động cách mạng, tiếp tục gây cơ sở”, giải tán các đội vũ trang tuyên truyền, đội cảm tử để thành lập các đội xây dựng cơ sở đi sâu tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân trong vùng tạm chiếm; ta tận dụng và sử dụng khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng xây dựng thành cơ sở của ta.

Cuối tháng 3 năm 1953, cán bộ, chiến sĩ vũ trang ở Tây Bắc tổ chức lại thành đoàn 53, do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn làm Đoàn trưởng, đồng chí Chế Đặng làm Chính trị viên, hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; số cán bộ quân sự rút về địa bàn tỉnh Bình Thuận. Đồng thời tiếp tục tiến hành giảm biên chế, đến giữa năm 1953, vùng Tây Bắc chỉ còn khoảng gần 20 cán bộ, chiến sĩ.

Do thu hẹp về tổ chức, mặt khác thiếu lực lượng vũ trang, trong khi phạm vi hoạt động rộng, địa bàn phức tạp, địch lại thường xuyên o ép, khống chế cơ sở, khống chế quần chúng, ráo riết tăng cường phát triển lực lượng Gum. Ngoài ra chúng thường xuyên càn quét, khủng bố nên hoạt động của đoàn gặp rất nhiều khó khăn. Có thời gian thiếu lương thực đến 3 tháng, anh em trong đoàn phải lấy lá cây rừng, củ rừng ăn thay cơm, có khi trong vòng một tuần lễ địch tổ chức càn quét liền 3 trận([40]). Tuy bị địch càn quét, đời sống, sinh hoạt gặp rất nhiều khó khăn, việc đi lại, tiếp tế của nhân dân không thực hiện được nhưng tuyệt đại bộ phận, cán bộ, chiến sĩ trong vùng Tây Bắc vẫn giữ vững ý chí, kiên trì bám địa bàn, bám dân hoạt động, từ các cơ sở vùng Bằng Tiên, RôMen… đoàn đã tìm bắt được liên lạc với  tỉnh Đăk Lăk.

Cuối năm 1953, thực hiện chủ trương của Ban cán sự Cực Nam: Tích cực chuẩn bị đánh Gia Bát, La Giày, Tánh Linh phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, một bộ phận lớn cán bộ quân sự của đoàn được điều động về chuẩn bị chiến trường. Đồng chí Đinh Sĩ Uẩn được lệnh rút về trung đoàn 812, cùng thời gian này đồng chí Thu Lâm ra vùng tự do Liên khu 5 dự chỉnh huấn Đảng. Như vậy, trên thực tế Phân ban Cán sự vùng Tây Bắc Lâm Đồng không còn tồn tại([41])

Giữa tháng 3 năm 1954, bộ đội chủ lực của ta nổ súng mở màn cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trường chính, đêm ngày 6 rạng ngày 7 tháng 4 năm 1954, trung đoàn 812 và lực lượng vũ trang tỉnh Lâm Đồng tập kích thắng lợi, diệt gọn 3 đồn La Dày, Gia Bát và Tánh Linh. Tiếp đó, ta phát triển mở rộng vùng du kích, vùng giải phóng. Trước sự tiến công đồng loạt của quân và dân ta, địch hoang mang lo sợ, bọn tề điệp, tay sai đứng trước nguy cơ tan rã.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, tướng Đơ Cát Tơ Ri và hàng chục ngàn sĩ quan, binh lính Pháp bị bắt sống; kết thúc thắng lợi cuộc tổng tiến công chiến lược Đông - Xuân năm 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, làm phá sản hoàn toàn kế hoạch NaVa; buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương ngày 20 tháng 7 năm 1954. Pháp và các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền cơ bản, lâu dài của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia, thực hiện ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, quân Pháp phải rút về nước, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời.

Được sự chỉ đạo của Ban cán sự Cực Nam và Ban cán sự Đảng tỉnh Lâm Đồng, cán bộ, chiến sĩ huyện Chiến Đấu tập trung về chiến khu Lê Hồng Phong (tỉnh Bình Thuận) để học tập, quán triệt nội dung, tinh thần Hiệp định và tình hình, nhiệm vụ mới.

Sau hơn hai năm vận dụng sáng tạo phương châm, phương pháp xây dựng phong trào cách mạng vùng địch hậu theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 9-1951) và các Nghị quyết của Liên Khu ủy 5 về công tác vùng địch tạm chiếm, huyện Chiến Đấu đã từng bước vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, đưa phong trào cách mạng không ngừng phát triển.

Qua thử thách và chiến đấu, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ trong huyện đã có nhiều tiến bộ về nhận thức và hành động cách mạng. Trong buổi đầu cách mạng chỉ chú trọng xây dựng và phát triển những cơ sở trong vùng đồng bào người Kinh, về sau đã đi sâu phát triển mở rộng phong trào và xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ những hoạt động nặng về bề nổi đã tiến tới chú trọng phát triển cả chiều sâu, bí mật xây dựng cốt cán, coi trọng chất lượng cơ sở, chất lượng phong trào cách mạng; từ phương thức lấy đấu tranh vũ trang làm mũi công tác cơ bản, tiến hành ồ ạt các hoạt động diệt tề, trừ gian đến lấy phương thức hoạt động chính trị, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng là chính và từng bước đi đến kết hợp nhuần nhuyễn giữa hoạt động bí mật với hoạt động công khai, hợp pháp, từng bước đưa phong trào cách mạng phát triển lên những bước mạnh mẽ hơn, phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong tỉnh và trong cả nước làm nên thắng lợi to lớn, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tuy nhiên, trong quá trình chuyển hướng đấu tranh đã bộc lộ một số nhược điểm, hạn chế như: Ngay từ khi triển khai phương châm, phương thức hoạt động cũng như trong quá trình vận động, do quá nhấn mạnh về hoạt động gây cơ sở, giải tán bộ phận quân sự, nảy sinh khuynh hướng thủ tiêu đấu tranh vũ trang. Vì vậy, khi địch mở rộng hoạt động, tăng cường đánh phá, ta không có lực lượng đánh trả, phải rút sâu vào rừng núi, xa dân, xa địa bàn hoạt động, đã gây ra tâm lý hoang mang, thiếu tin tưởng trong quần chúng vào khả năng chiến thắng của cách mạng, đã hạn chế sự phát triển của phong trào; tuy ta đã tập trung xây dựng cơ sở cốt cán trung kiên, làm nòng cốt trong phong trào quần chúng nhưng chưa đảm bảo yếu tố bí mật, sớm bộc lộ lực lượng; chất lượng cốt cán và công tác xây dựng nội bộ còn có mặt hạn chế nên khi phong trào cách mạng gặp khó khăn, một số cơ sở nằm im không hoạt động và có cơ sở, có người trong lực lượng của ta phản bội gây cho cách mạng nhiều tổn thất.

Trong khi thâm nhập xây dựng phong trào, cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ta chậm phát hiện âm mưu, thủ đoạn của địch trong việc tổ chức nhen nhóm, thành lập các “Gum”, các “ổ” vũ trang để o ép, khống chế quần chúng, phá hoại phong trào cách mạng.

 Với địa bàn hoạt động rộng, bao gồm cả vùng Tây Bắc Lâm Đồng, huyện Chiến Đấu và thị xã Đà Lạt, địa bàn hoạt động bị chia cắt, phân tán do điều kiện địa hình tự nhiên tạo ra, thiếu mối liên hệ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các vùng; có những thời điểm cực kỳ khó khăn, các mối liên hệ, đường dây liên lạc bị cắt đứt, không có điều kiện để tiếp tế, chi viện cho nhau, trong khi cán bộ, chiến sĩ của ta chỉ có 42 người([42]), đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình chỉ đạo, tổ chức xây dựng cơ sở, cốt cán và phong trào cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo và vùng người Kinh.

Trong quá trình xây dựng phong trào cách mạng ở huyện Chiến Đấu, do chưa nhận thức được vai trò, vị trí, tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của vùng Tây Bắc tỉnh Lâm Đồng và huyện Chiến Đấu, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số nên trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chưa đề ra được những chủ trương, kế hoạch, giải pháp phù hợp để xây dựng vùng Tây Bắc tỉnh Lâm Đồng và huyện Chiến Đấu thành căn cứ địa, bàn đạp vững chắc, phục vụ cho sự chỉ đạo, tổ chức xây dựng phong trào nội ô thị xã và bao vây, cô lập thị xã Đà Lạt nhằm hạn chế các hoạt động càn quét, đánh phá phong trào cách mạng của địch trên địa bàn thị xã Đà Lạt và huyện Chiến Đấu. Chưa vận dụng tốt phương châm, phương pháp hoạt động, có nơi, có lúc xây dựng phong trào còn mang tính hình thức, quá chú trọng phát triển số lượng, chưa quan tâm đúng mức về chất lượng. Có lúc phô trương lực lượng, hoạt động diệt tề, trừ gian ồ ạt, tràn lan, chưa gắn kết chặt chẽ với xây dựng, củng cố và bảo vệ  cơ sở chính trị nên bị địch truy kích, càn quét, khủng bố, khống chế, gây ra nhiều khó khăn, tổn thất cho phong trào cách mạng. Phương thức hoạt động có lúc, có nơi vừa máy móc, vừa lúng túng, chưa kết hợp nhuần nhuyễn giữa hoạt động công khai, hợp pháp với bí mật, nửa hợp pháp.

Trong xây dựng cơ sở và phong trào cách mạng ngay từ đầu chưa quan tâm đến vùng đồng bào dân tộc, chưa nắm vững phong tục, tập quán của đồng bào, thiếu thường xuyên “đeo bám” để vận động, giáo dục nhân dân, vạch rõ âm mưu của kẻ thù nên kẻ thù đã lợi dụng để dụ dỗ, lôi kéo, kích động quần chúng gây khó khăn cho cách mạng

Công tác xây dựng Đảng, phát triển Đảng chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều nơi, phong trào cách mạng phát triển mạnh nhưng chưa có đảng viên để làm nòng cốt lãnh đạo nên khi cán bộ, chiến sĩ của các đội công tác, vũ trang tuyên truyền rút đi làm nhiệm vụ ở nơi khác, phong trào bị lắng xuống, cơ sở, cốt cán nằm im không hoạt động. Trong phát triển Đảng, chưa chú trọng đến người dân tộc thiểu số, phụ nữ và thành phần công nhân.

Những tồn tại, hạn chế trên là bài học lớn rút ra từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, bổ sung vào những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chiến Đấu trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo.

 

 

 

 

 

 

Phần thứ hai

ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỨC TRỌNG

TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

(1954-1975)

 

Chương I

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ,

GIỮ VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG

(8/1954-7/1961)
 

I. XÂY DỰNG THỰC LỰC CÁCH MẠNG, ĐẤU TRANH ĐÒI HOÀ BÌNH, THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ.

Trải qua 9 năm kháng chiến với biết bao gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng oanh liệt, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tài tình của Đảng đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, đưa cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới: Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Thắng lợi của cuộc tổng tiến công Đông - Xuân năm 1953 - 1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử toàn thắng, là cơ sở quyết định thắng lợi trên bàn đàm phán để Hiệp định Giơnevơ về kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954. Nhưng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã trắng trợn phá hoại Hiệp định.

Tháng 6 năm 1954, đế quốc Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam lập ra Chính phủ bù nhìn tay sai; đồng thời tiến hành hàng loạt thủ đoạn để hất cẳng Pháp. Với mưu đồ biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của Mỹ nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ ở Đông Nam Á.

Đối với địa bàn tỉnh Tuyên Đức và thị xã Đà Lạt, nơi có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự, chính trị và kinh tế không chỉ đối với Nam Tây Nguyên mà còn có vị trí chiến lược quan trọng của cả miền Nam và Nam Đông Dương.

Để bảo vệ Đà Lạt, hậu cứ cuối cùng của Mỹ - ngụy ở miền Nam, đế quốc Mỹ bố trí hệ thống đồn bót, căn cứ quân sự trên các trục đường 20, 21bis, đường 11 và các khu định cư của đồng bào công giáo, đồng bào các dân tộc Tày, Nùng ở miền Bắc bị dụ dỗ, lùa mỵ, di cư vào miền Nam năm 1954 - 1955 như: khu di cư Phú Hiệp (huyện Di Linh); Tùng Nghĩa, Liên Hiệp (trên trục đường 20), Bình Thạnh (huyện Đức Trọng); Lạc Lâm, Lạc Nghiệp (huyện Đơn Dương) trên đường 21bis, Phát Chi trên đường 11. Các khu định cư này gắn với hệ thống nhà thờ, đồn bót, căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy.

Đồng thời, chúng đẩy mạnh đôn quân, bắt lính biên chế vào lực lượng cộng hòa, bảo an, dân vệ, xây dựng các đại đội, tiểu đoàn thanh niên chiến đấu và tiến hành xây dựng, củng cố hệ thống phòng thủ liên hoàn trên địa bàn các xã, ấp; mở rộng, nâng cấp đường 20, 21bis; sửa chữa, nâng cấp sân bay Liên Khương, Cam Ly để phục vụ mục tiêu quân sự. Đi đôi với tăng cường củng cố hệ thống bộ máy quân sự, Mỹ - ngụy gấp rút cải tổ, sắp xếp, tăng cường xây dựng bộ máy ngụy quyền các cấp, ở mỗi cấp ngụy quyền, chúng bố trí một sĩ quan quân sự đứng đầu, nhằm quân sự hóa bộ máy ngụy quyền.

Ngay sau khi lập ra bộ máy ngụy quyền tay sai, Mỹ - Diệm tiến hành chính sách “tố cộng”, mở hàng trăm lớp “tố cộng” tập trung, thực chất đây là những trại tập trung tra tấn, truy bức quần chúng, buộc họ khai báo tổ chức Đảng, cơ sở cốt cán của cách mạng, thanh lọc để bắt những người tham gia kháng chiến chống Pháp phải “ly khai” tổ chức Việt Minh, tách ảnh hưởng của Đảng ra khỏi quần chúng; chúng đưa ra phương châm “thà giết nhầm hơn bỏ sót”, “giết nhầm 100 người còn hơn bỏ sót một tên cộng sản”. Đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc, chúng mở chiến dịch “Thượng du vận”, tiến hành “tố cộng, diệt cộng” với mục tiêu là “đánh mạnh, phá sạch, nhổ sạch cơ sở cách mạng”, “lấy người dân tộc trị người dân tộc”. Qua thực hiện chính sách “tố cộng”, chúng đã giết hại hàng chục ngàn người và bắt giam, tra tấn dã man hàng trăm ngàn người.

Ở tỉnh Tuyên Đức, ngụy quyền ráo riết thực hiện phân loại quần chúng, thanh lọc, bóc tách cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng. Ngoài ra, ở thị xã Đà Lạt, năm 1956, một số tên phản động giả danh cán bộ cách mạng, dùng cờ đỏ, sao vàng và ảnh Bác Hồ để vận động những người yêu nước và cơ sở cách mạng đến dự mít tinh tại Cam Ly, sau khi tập hợp đông đảo mọi người, chúng dùng lực lượng cảnh sát vây bắt đưa về giam cầm, tra tấn dã man tại nhà lao Đà Lạt, đồng thời tung tin vu khống “Việt cộng” tập hợp lực lượng, chống phá Hiệp định Giơnevơ, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân, nhằm bôi nhọ cách mạng, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với cách mạng.

Đối với huyện Chiến Đấu, một địa bàn áp sát và là cửa ngõ chủ yếu dẫn vào thị xã Đà Lạt, Mỹ - ngụy một mặt tăng cường củng cố bộ máy ngụy quyền, bố trí hệ thống đòn bót, căn cứ quân sự dày đặc và cài cắm mạng lưới tề điệp đến tận các xóm, ấp, buôn, làng để uy hiếp, kìm kẹp, khống chế nhân dân; mặt khác, tiến hành thanh lọc quần chúng, phân loại đối tượng để tìm diệt những cơ sở cách mạng và những người tham gia kháng chiến chống Pháp, với khẩu hiệu “diệt cán, tầm thanh, dựng tề”, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.

Về lực lượng quân sự, chúng bố trí tại chi khu một đại đội bảo an, ở phân chi khu Phú Thạnh một trung đội dân vệ; các đồn Phi Yàng, Đại Ninh, Phi Nôm, P’renn, mỗi nơi có một tiểu đội dân vệ, mỗi ấp có một tiểu đội thanh niên chiến đấu để kìm kẹp quần chúng và hỗ trợ cho bọn tề, điệp càn quét, chống phá cách mạng.

Trước âm mưu, thủ đoạn can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1954, Ban Chấp hành Trung ương tổ chức hội nghị mở rộng lần thứ 6 (Khóa II) khẳng định: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong tình hình mới: “Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là: Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, hội họp, tổ chức, đi lại…), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất nước nhà và tranh thủ độc lập”. Phương châm hoạt động là “tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với không hợp pháp”. Để phù hợp với tình hình mới, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, lập lại xứ ủy Nam Bộ, ở Liên Khu V giữ nguyên Khu ủy và thành lập 4 Liên tỉnh ủy. Do đó, thời kỳ này không còn Ban cán sự Đảng tỉnh Lâm Đồng, mọi hoạt động do Liên tỉnh 3 lãnh đạo, chỉ đạo nhưng chủ yếu tập trung chỉ đạo thị xã Đà Lạt.

Tại huyện Chiến Đấu, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, theo sự chỉ đạo của trên, toàn bộ cán bộ, chiến sĩ đều tập trung xuống chiến khu Lê Hồng Phong (tỉnh Bình Thuận) để học tập về đình chiến và chuyển quân tập kết ra Bắc. Khi Mỹ-Diệm đàn áp, khủng bố, cơ sở, cốt cán cách mạng thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức, đối phó với tình hình, nhiều người bị hy sinh hoặc bị địch bắt, giam cầm, tra tấn dã man, phong trào cách mạng bị tổn thất.

Trước tình hình đó, nhiệm vụ xây dựng thực lực cách mạng là một đòi hỏi hết sức bức thiết, cấp bách của phong trào cách mạng trên địa bàn huyện; Liên tỉnh 3 cử một đoàn cán bộ, đảng viên([43]) theo đường bất hợp pháp trở lại Đà Lạt làm nhiệm vụ xây dựng thực lực cách mạng, tổ chức vận động, hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi hòa bình, đòi Hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ.

Các đồng chí trong đoàn công tác sau khi đã tìm được việc làm thích hợp, tạo thế hợp pháp để che mắt địch, tháng 3 năm 1955, Ban Cán sự Đảng Cực Nam quyết định thành lập Ban cán sự Đảng Đà Lạt. Trong phiên họp đầu tiên, Ban Cán sự Đảng Đà Lạt đã đề ra một số nhiệm vụ trước mắt nhằm ổn định tổ chức, móc nối, liên lạc với các cơ sở cũ, xây dựng, phát triển cơ sở mới, trước hết là trong công nhân, làm chỗ dựa để phát triển mở rộng ra vùng ven… Trong phiên họp này, Ban Cán sự đã phân công hai đồng chí phụ trách địa bàn quận D’Ran, trong đó có huyện Chiến Đấu.

Với phương châm hoạt động công khai, hợp pháp trong các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân, phụ nữ, tiểu thương… đấu tranh đòi hòa bình, dân sinh, dân chủ. Thông qua đó, tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng, ta đã móc nối lại được hầu hết các cơ sở cũ và xây dựng được thêm nhiều cơ sở mới từ nội ô thị xã Đà Lạt đến vùng ven thị xã và vùng nông thôn trên các trục đường 20, 21bis (còn gọi là đường 21 kéo dài), nay là quốc lộ 27 như ở các ấp([44]): Định An (xã Hiệp An), ĐạBrết (xã Đinh Văn), Gia Thạnh (xã Bình Thạnh), La Ba (xã Phú Sơn). Đồng thời, tổ chức thăm nuôi, bí mật móc nối liên lạc và thông tin cho số cán bộ, cơ sở, cốt cán đang bị giam cầm trong các nhà lao nắm được tình hình đấu tranh của phong trào cách mạng của quần chúng các nơi, nhằm tạo sự thống nhất trong phong trào đấu tranh và động viên anh chị em trong tù giữ vững khí tiết cách mạng, phối hợp đấu tranh chống lại chế độ tù đày hà khắc của Mỹ- ngụy.

Từ cuối năm 1955 và trong năm 1956, Mỹ - Diệm đẩy mạnh chiến dịch “tố cộng” lên mức độ cao. Cùng với những thủ đoạn phân loại đối tượng nhân dân, chúng tổ chức các lớp “tố cộng” khắp nơi, trung bình cứ 100 người dân, địch bố trí từ 1 đến 2 cán bộ “tố cộng” theo dõi, giám sát. Trong các lớp “tố cộng”, chúng hành hạ, tra tấn dã man cán bộ, đảng viên và những người yêu nước, Mỹ - Diệm còn ra sức sử dụng bọn tay sai phản động, đội lốt tôn giáo, mê hoặc, mua chuộc, dụ dỗ những người nhẹ dạ, có tư tưởng cầu an và lôi kéo một số người có nợ máu với cách mạng và nhân dân trong chống Pháp, làm tay sai đắc lực cho chúng; chúng ép buộc thanh niên vào tổ chức “thanh niên cộng hòa”, thiết lập từ 5-10 gia đình thành một nhóm liên gia để kiểm tra, giám sát lẫn nhau... đã gây nhiều khó khăn, thử thách mới trong phong trào cách mạng ở miền Nam nói chung và huyện Chiến Đấu nói riêng.

Để thực hiện mưu đồ chiến lược, xây dựng các tuyến phòng thủ, bảo vệ vững chắc đô thị Đà Lạt, trung tâm căn cứ có tầm chiến lược quan trọng của Mỹ - Diệm ở miền Nam; ngày 19 tháng 5 năm 1958, Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh số 261-NV, thành lập tỉnh Tuyên Đức([45]), trong đó, có quận Đức Trọng. Quận Đức Trọng chúng thành lập 2 tổng người Kinh là: Ninh Thạnh, Bình Sơn và 2 tổng người Thượng là Đinh Tân, Mỹ Lệ. Toàn quận có 12 xã với 60 ấp, đứng đầu quận chúng bố trí một sĩ quan ngụy quân làm quận trưởng, giúp việc cho quận trưởng là 2 quận phó và 1 sĩ quan phụ trách quân sự. Trên thực tế, Ngô Đình Diệm đã quân sự hóa bộ máy hành chính quận.

Như vậy, đến cuối năm 1958, Mỹ-Diệm đã cơ bản thiết lập xong bộ máy chính quyền ở quận Đức Trọng([46]), làm công cụ đắc lực cho việc kìm kẹp, khống chế nhân dân, đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng trên địa bàn huyện.

Tháng 6 năm 1956, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết chỉ rõ: “Hình thức đấu tranh trong toàn quốc ta hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định… cần củng cố các lực lượng vũ trang, bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời, xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”.

Để xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng miền Nam, giữa năm 1958, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về nhiệm vụ trước mắt ở Tây Nguyên, Chỉ thị xác định: “Tây Nguyên là một vị trí quan trọng chẳng những đối với miền Nam nước ta mà còn đối với cả miền Nam Đông Dương, một địa bàn chiến lược, có ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch, là nơi có điều kiện tốt để xây dựng căn cứ cách mạng, làm chỗ dựa cho phong trào miền Nam” và chỉ rõ nhiệm vụ của Tây Nguyên là: “Giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng, xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ cách mạng của ta ở miền Nam, phá tan âm mưu xây dựng trung tâm căn cứ của Mỹ - Diệm”.

Quán triệt thực hiện Nghị quyết và Chỉ thị của Bộ Chính trị, được sự chỉ đạo của Liên Khu ủy 5 và Liên tỉnh ủy 3, Ban cán sự Đảng Đà Lạt lãnh đạo chuyển hướng hoạt động từ đấu tranh chính trị một chiều sang hướng dẫn quần chúng vừa đấu tranh chính trị, vừa tổ chức cho quần chúng bố phòng, canh gác chống địch lùng sục để tự bảo vệ mình và xây dựng căn cứ, tạo thế để bám trụ, đứng chân lâu dài cho phong trào cách mạng ở địa phương. Đồng thời, phát triển cơ sở, mở rộng phong trào trên dọc quốc lộ 20 nhằm tạo thế liên hoàn và mối liên hệ thông suốt giữa phong trào cách mạng ở thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng với phong trào cách mạng ở thành phố Sài Gòn, chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã móc nối lại được các cơ sở cũ và phát triển thêm một số cơ sở mới ở các ấp Định An, Quảng Hiệp, Phú Thạnh (xã Hiệp Thạnh), Đại Ninh (xã Ninh Gia).

Đến cuối năm 1958, phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng có những bước chuyển biến mới quan trọng. Từ một địa bàn trắng phong trào, trắng cơ sở đã móc nối, liên lạc lại các cơ sở cũ và phát triển thêm nhiều cơ sở mới trên trục đường 20 từ ấp Định An đến ấp Đại Ninh và trên trục đường 21bis từ ấp Gia Thạnh đến ấp La Ba, làm nòng cốt trong phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc trong huyện.

Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng xảo quyệt, nham hiểm và thâm độc của Mỹ - Diệm, thông qua cơ sở, cốt cán, ta tuyên truyền, vận động quần chúng, giúp họ ngày càng nhận thức rõ hơn những chính sách tàn bạo, phát xít của địch và tổ chức hướng dẫn cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh liên tục đấu tranh chống khủng bố, chống “tố cộng, diệt cộng”… Có những cuộc đấu tranh có hàng ngàn người tham gia như cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình của phụ nữ chợ Đà Lạt (tháng 8 năm 1955); đấu tranh chống tăng giá lương thực, chống độc quyền rau và không tham gia tổ chức “phụ nữ liên đới” của Trần Lệ Xuân([47]) (đầu năm 1957); đấu tranh chống dồn dân, cướp đất của nhân dân thị xã Bảo Lộc và huyện Di Linh (tháng 8 năm 1957); chống lập ấp dân sinh, khu trù mật ở huyện Di Linh, thị xã Bảo Lộc (năm 1958)… Nhiều nơi như các buôn Bờ Gia, Nộp, K’Dòn (huyện Di Linh), đồng bào đã ra rừng lập các khu căn cứ bí mật, sống bất hợp pháp, tổ chức bố phòng, bảo vệ buôn làng, cất giữ vũ khí, lương thực, thực phẩm… trở thành điểm đứng chân, căn cứ của các cơ quan, đơn vị để chỉ đạo phong trào cách mạng.

Cùng với đấu tranh chính trị hợp pháp, ta đã xây dựng tổ chức tự vệ vũ trang, bí mật diệt ác, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Các cuộc đấu tranh trong giai đoạn này, đã kết hợp được giữa đấu tranh chính trị hợp pháp, với tự vệ vũ trang để bảo vệ lực lượng cách mạng và kịp thời ngăn chặn các hành động tội ác của Mỹ - Diệm với nhân dân. Tình hình đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng.

 

II. MỞ RỘNG ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG, NỐI THÔNG HÀNH LANG CHIẾN LƯỢC BẮC – NAM.

Đến cuối năm 1958, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, đặt ra yêu cầu bức thiết về đường lối cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 01 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở hội nghị lần thứ 15, quyết định đường lối cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”. Hội nghị chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tinh thần cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”

Dưới ánh sáng nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhân dân nhiều nơi ở các tỉnh Liên Khu 5 và Nam bộ đã nổi dậy chống lại ách kìm kẹp của Mỹ - Diệm. Nhiều tỉnh tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang, bước đầu hoạt động có hiệu quả tốt. Tình hình đó đã tác động mạnh đến phong trào cách mạng ở tỉnh Tuyên Đức - Lâm Đồng nói chung và huyện Đức Trọng nói riêng. Cuối năm 1959, đồng chí đồng chí Lê Văn Hiền (Tám Hiền) thay mặt Thường vụ Liên tỉnh ủy 3 đến Đà Lạt để phổ biến Nghị quyết Trung ương 15. Sau khi cán bộ, đảng viên được học tập Nghị quyết, đã tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc về tư tưởng, đồng thời xác định rõ được vai trò, trách nhiệm của mình đối với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

Đối với Tây Nguyên, Trung ương Đảng xác định phải xây dựng thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng miền Nam, tạo bàn đạp nối thông đường hành lang chiến lược từ miền Bắc vào Nam Bộ. Tháng 3 năm 1959, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về: “Nhiệm vụ xây dựng căn cứ cách mạng Tây Nguyên”. Chỉ thị chỉ rõ: “Nhìn chung miền núi Liên Khu 5 và vùng rừng núi Đông Bắc Nam bộ là căn cứ cách mạng chính ở miền Nam, cũng là trung tâm căn cứ quân sự của địch… nhưng riêng phía Nam… là hướng chính xây dựng trung tâm hậu phương của địch. Đối với ta là nơi nối liền giữa Trung Bộ và Nam Bộ, là nơi bao quanh Sài Gòn - Chợ Lớn, nơi tạo thế hỗ trợ giữa Sài Gòn - Chợ Lớn với Tây Nguyên. Nam Tây Nguyên là vị trí cơ động nhất ở miền Nam. Vì vậy, hướng chính nỗ lực xây dựng căn cứ là phía Nam”.

Ở huyện Đức Trọng, nhiệm vụ cách mạng vô cùng cấp thiết, khẩn trương của các đội công tác lúc này là vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ cách mạng cho Khu 6 và tỉnh Tuyên Đức, nối thông hành lang chiến lược Bắc – Nam. Giữa năm 1960, Liên tỉnh ủy 3 rút tổ công tác của đồng chí Nguyễn Lâm ở huyện Anh Dũng (nay là khu vực xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) về sáp nhập với đội công tác của đồng chí Đinh Sĩ Uẩn và 7 đồng chí tăng cường từ miền Bắc vào thành một đội công tác. Chi bộ đội công tác tổ chức đại hội, quán triệt chủ trương và tư tưởng chỉ đạo của cấp trên, đề ra mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ cụ thể và tổ chức thành 2 bộ phận. Bộ phận thứ nhất do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn làm Đội trưởng và 4 đồng chí cán bộ miền Bắc tăng cường, phát triển từ buôn Đơng K’Si lên buôn Đồng Mang, Đạ Tro (về hướng Đông Bắc thị xã Đà Lạt) để xây dựng cơ sở và giữ liên lạc với Liên tỉnh 3. Bộ phận thứ 2 do đồng chí Nguyễn Lâm làm Đội trưởng, đồng chí Trần Thành làm Đội phó vũ trang tuyên truyền từ căn cứ phía Tây huyện Anh Dũng phát triển lên các buôn Tân Tây Ló, La Hia, K’Long. Hai bộ phận này hoạt động theo phương thức “cầu chuyền”, lúc đầu tiếp xúc với đồng bào ngoài nương rẫy để cảm tỉnh, tiến tới vào buôn làng để tuyên truyền, vận động xây dựng cơ sở, cốt cán. Cùng với tuyên truyền, vận động, đội tiến hành khống chế bọn tề, ngụy và tiếp cận, tuyên truyền, thuyết phục các mục sư, thầy giảng đạo Tin lành ủng hộ cách mạng.

Chỉ trong một thời gian ngắn, đến tháng 2 năm 1961, đội đã xây dựng được nhiều cơ sở từ RôMen, trên đường 21bis lên đến các buôn Đam Rông, Đơng Giơri và từ buôn Đơng Êdiêng lên các buôn Đăng Gia Đit, Đơng Knớ, K’Long Phe, Pang ting Đơng... xây dựng được vùng giải phóng rộng lớn từ phía Tây huyện Đức Trọng lên vùng Tân Tây Ló (phía Bắc và Đông Bắc huyện Lạc Dương) đưa hàng ngàn đồng bào lên thế làm chủ.

 Đội công tác của Liên tỉnh ủy 4 do đồng chí Nguyễn Xuân Khanh (Năm Khanh) phụ trách gồm 13 đồng chí, làm nhiệm vụ mở phong trào xây dựng cơ sở và mở đường hành lang chiến lược Bắc - Nam nối từ tỉnh Đăk Lăk vào chiến khu D và miền Đông Nam Bộ. Đội tiến hành vận động nhân dân mở đường, làm cầu dây, chuẩn bị thuyền - phà qua sông và chuẩn bị lương thực, thực phẩm. Vận động thanh niên nam nữ thoát ly vào đội công tác; địa bàn hoạt động của đội từ huyện Đăk Min (phía Nam tỉnh Đăk Lăk) phát triển xuống theo hai hướng, một hướng dọc theo sông Đạ R’Măng và sông Krông Nô đến các buôn Pang Tang, Pang Xim, K’Long Phe, Pang Ting Đơng, Phi Á… Hướng thứ hai phát triển dọc theo đường 21 bis đến các buôn Fi Yàng, Firsơrôn, Liên Hung, Rô Men… bắt liên lạc với đội vũ trang tuyên truyền của Liên tỉnh ủy 3 và thị xã Đà Lạt.

 Đầu tháng 2 năm 1961, hai đội vũ trang của Liên tỉnh ủy 3 và Liên tỉnh ủy 4  đã nối thông hành lang và gặp nhau tại buôn Pang Ting Đơng, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn nối liền nhau từ các huyện Lăk (tỉnh Đăk Lăk), Khiêm Đức (tỉnh Quảng Đức, nay là tỉnh Đăk Nông) đến các huyện Lạc Dương, Đức Trọng (tỉnh Tuyên Đức), các huyện Bảo Lộc, Di Linh (tỉnh Lâm Đồng cũ).

Đến tháng 4 năm 1961, phát triển mở rộng được vùng giải phóng phía Bắc huyện Đức Trọng, gồm 20 buôn dọc theo sông Đạ R’Măng và đường 21 bis, nối liên lạc với huyện Lạc Dương, huyện Lăk, Khiêm Đức là một thắng lợi lớn của cách mạng miền Nam. Cuối tháng 4 năm 1961, đường hành lang B3 huyện Đức Trọng được hình thành nối với vùng căn cứ B5 (tỉnh Đăk Lăk) và vùng căn cứ B7 (tỉnh Lâm Đồng). Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, tháng 5 năm 1961, Liên tỉnh ủy 4 quyết định thành lập Ban cán sự vùng Tây Bắc Đức Trọng do đồng chí Nguyễn Xuân Khanh làm Bí thư.

 Ban cán sự vùng Tây Bắc Đức Trọng đặt trọng tâm tuyên truyền, giáo dục quần chúng vùng mới giải phóng, giúp đỡ cách mạng về người và lương thực, thực phẩm, giữ gìn bí mật, góp sức cùng đội công tác xây dựng đường hành lang chiến lược Bắc - Nam.

 Nhân dân đã đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm phục vụ cho các bộ phận công tác trên đường hành lang Bắc - Nam và tiểu đoàn 186 của Quân khu 6 hoạt động đánh địch trên địa bàn huyện Đức Trọng. Trong đó, điển hình là các buôn Pang Tang, R’Nốt, Pang Xim, K’Long Phe, buôn Rin, PangTing Đơng và các gia đình cốt cán như: vợ chồng K’Hen, Ma Ót, Bạp Chai, Bạp Ban, K’Oanh...

Cũng trong thời gian này, 2 đội sản xuất của tỉnh và Khu 6 tổ chức sản xuất tại buôn R’Nốt do đồng chí Chế Lễ làm Đội trưởng, khu sản xuất tại buôn Klong Phe do đồng chí Trần Lê làm Đội trưởng đã tổ chức sản xuất được hàng trăm tấn lương thực, cung cấp cho cơ quan và các đoàn cán bộ di chuyển trên đường hành lang.

Lực lượng vũ trang với 1 khung đại đội do đồng chí Ma Moi làm Đại đội Trưởng đứng chân trên đường 21 bis, phụ trách từ cầu Phi Có đến buôn Liên Hung, tổ chức đánh phá các cầu trên đường 21 bis, tiêu diệt bọn thám báo từ xã Phú Sơn ra, đồng thời tuyên truyền giáo dục quần chúng, nhất là buôn Liên Hung và nhà thờ Liên Hung chống địch càn, bảo vệ hành lang. Tiểu đoàn 186 của Quân khu 6, sau khi đánh cứ điểm Đam Rông, lên đứng chân tại buôn PangTing Đơng, Pang Xim để vận động nhân dân tham gia cách mạng và chặn đánh địch 2 trận, bẻ gãy các cuộc càn quét của địch vào vùng này.

Như vậy, sau hơn 2 năm (tháng 01 năm 1959 đến tháng 2 năm 1961), vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh, vừa mở rộng địa bàn xây dựng cốt cán cách mạng, xóa bỏ bộ máy tề ngụy, kìm kẹp nhân dân, vừa xây dựng bộ máy chính quyền tự quản của nhân dân nhằm xây dựng địa bàn căn cứ, nối thông đường hành lang từ các tỉnh duyên hải Cực Nam Trung bộ với Tây Nguyên, góp phần bảo vệ và củng cố đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, tạo ra một vùng giải phóng liên hoàn rộng lớn từ đường 21 bis, phía Tây huyện Đức Trọng lên đến căn cứ Nam Quảng Đức, nối liền với vùng Tây Bắc huyện Lạc Dương và căn cứ Nam Đăk Lăk sang phía Đông huyện Lạc Dương, Đông Bắc thị xã Đà Lạt đến căn cứ huyện Bác Ái, Anh Dũng (tỉnh Ninh Thuận) và từ đường 21 bis, phía Tây huyện Đức Trọng giáp với căn cứ Đại Đờn (phía Tây huyện Di Linh)… Trong quá trình mở rộng địa bàn, xây dựng căn cứ, nối thông hành lang, 2 đội vũ trang tuyên truyền của Liên tỉnh ủy 3 và Liên tỉnh ủy 4 vừa kết hợp tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, xây dựng cơ sở, cốt cán và bổ sung lực lượng cho các đội vũ trang tuyên truyền, kết hợp với hoạt động vũ trang diệt ác, phá tề, xóa bỏ bộ máy ngụy quyền, lập ra chính quyền tự quản của nhân dân. Tuy hoạt động vũ trang chỉ là bước đầu nhưng đã có ảnh hưởng lớn trong việc hỗ trợ phong trào quần chúng đứng lên nắm chính quyền; xây dựng được vùng giải phóng rộng lớn từ phía Tây huyện Đức Trọng lên vùng Tây - Tây Bắc và Đông Bắc huyện Lạc Dương, đưa hơn 6.000 đồng bào lên thế làm chủ.

 Đường hành lang chiến lược Bắc - Nam đã đưa đón an toàn nhiều đoàn cán bộ cao cấp của Đảng vào thành lập Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Nguyễn Hữu Thọ vào thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam… và vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí, nhất là điện đài vô tuyến điện, đài phát thanh. Đường hành lang Bắc - Nam trên địa bàn huyện Đức Trọng được khai thông đã đóng góp cho phong trào cách mạng miền Nam thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 15 của Đảng về đường lối cách mạng Miền Nam…  Đây là thành tích mở đầu cho lịch sử đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương II

ĐẢNG BỘ HUYỆN LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHỐNG DỒN DÂN, LẬP ẤP CHIẾN LƯỢC, QUYẾT TÂM BÁM TRỤ XÂY DỰNG CƠ SỞ CÁCH MẠNG, TẤN CÔNG ĐỊCH CẢ VỀ QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ

                                               (7/1961 - 7/1965)                                       

I. THÀNH LẬP HUYỆN UỶ ĐỨC TRỌNG; XÂY DỰNG CƠ SƠ CÁCH MẠNG, BẢO VỆ CĂN CỨ VÀ TỔ CHỨC TẤN CÔNG ĐỊCH 

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển từ chiến lược “Chiến tranh đơn phương” sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ cho ra đời kế hoạch Stalây - Taylo, trong đó chúng đề ra “quốc sách lập ấp chiến lược” để “bình định miền Nam trong 18 tháng”.

Từ giữa năm 1961, thực hiện Kế hoạch Stalây - Taylo với cái gọi là “an ninh lãnh thổ”, địch đẩy mạnh các hoạt động cả về chính trị và quân sự. Chúng đã ráo riết dồn dân, lập ấp chiến lược([48]), lập các hàng rào lông nhím, đào hào sâu, đan kẽm gai và cắm chông, gài mìn chung quanh để kìm kẹp, kiểm soát chặt chẽ mọi việc đi lại, sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, cách ly nhân dân với cách mạng. Đồng thời, chúng tăng cường đôn quân, bắt lính để bổ sung lực lượng, tăng cường càn quét, đánh phá vào các căn cứ, chia cắt đường hành lang của cách mạng.

Trên địa bàn huyện, địch bố trí một trung đội biệt kích, thám báo, 200 lính dân vệ, trên 200 cán bộ hương thôn ([49]). Tại trung tâm huyện Đức Trọng, chúng bố trí chỉ huy sở Trung đoàn 53 sát với chi khu quân sự quận Đức Trọng, bên cạnh đó là trung tâm huấn luyện địa phương quân và nghĩa quân liên tỉnh([50]); tại Đam Pao, chúng xây dựng một trại huấn luyện biệt kích là người dân tộc thiểu số, do cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy, huấn luyện. Ở các địa bàn xung yếu, chúng bố trí các tiểu đoàn của Trung đoàn 53 chốt chặn.

Đầu năm 1962, địch tập trung lực lượng đánh phá vào các khu căn cứ, vùng mới giải phóng của ta và ráo riết dồn dân vào các vùng do chúng kiểm soát để lập ấp chiến lược, chúng chọn ấp Gia Thạnh của huyện Đức Trọng làm một trong những địa bàn xây dựng thí điểm ấp chiến lược.

Cùng với đẩy mạnh các hoạt động quân sự, địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách “tôn giáo hóa” trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là triệt để lợi dụng đạo Tin lành, Cơ đốc phục lâm; chúng vừa dùng vật chất để dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo đồng bào dân tộc vào đạo, vừa dùng thần quyền, giáo lý để mê hoặc, đầu độc quần chúng và tăng cường đào tạo, sử dụng mục sư, thầy giảng kết hợp với bọn tề, điệp tại chỗ cưỡng ép, khống chế đồng bào, đã gây cho ta rất nhiều khó khăn trong xây dựng cơ sở, cốt cán và củng cố, bảo vệ căn cứ cách mạng.

Ngoài ra, chúng còn lập “sổ đen” để theo dõi những gia đình có người thân đi theo cách mạng, lập ra các nhóm liên gia, cài cắm bọn tề điệp theo dõi những người tình nghi có tham gia hoạt động cách mạng để chỉ điểm cho chúng đánh phá; chúng còn thành lập tổ chức “Hiệp hội nông dân” để lôi kéo quần chúng…

Về phía ta: Từ sau thắng lợi của phong trào Đồng Khởi ở các tỉnh Nam Bộ và Liên khu 5, tháng 01 năm 1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về phương hướng, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam. Trong Chỉ thị, Bộ Chính trị nhận định: “Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu”. Do đó, phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam là “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch trên cả 2 mặt chính trị và quân sự”.

Giữa năm 1961, Thường vụ Liên tỉnh ủy 3 đề ra Nghị quyết chỉ rõ: “Tích cực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và bồi dưỡng lực lượng của ta, ra sức xây dựng và bảo vệ căn cứ; vùng căn cứ phải xây dựng vững chắc về kinh tế, chính trị và quân sự. Đối với vùng tranh chấp, vừa đấu tranh chính trị, vừa đấu tranh vũ trang để nhanh chóng đưa nhân dân lên làm chủ. Ở vùng tranh chấp, cần gấp rút xây dựng thực lực cách mạng để đến đầu năm 1962, chuyển lên tranh chấp mạnh và tiến lên đấu tranh vũ trang là chủ yếu. Trong vùng địch kiểm soát, ra sức vận dụng mọi khả năng, thuận lợi, tranh thủ sơ hở của địch để xây dựng cơ sở cách mạng”.

Phát huy thắng lợi của phong trào Đồng Khởi và thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, phong trào cách mạng tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược, làm thay đổi cục diện cách mạng ở miền Nam, từ thế giữ gìn, xây dựng và bảo tồn lực lượng cách mạng đã chuyển sang thế tiến công mạnh mẽ, rộng khắp và liên tục.

Trên địa bàn ấp Quảng Hiệp (xã Hiệp Thạnh), đội công tác của đồng chí Sáu Đen([51]) đã xây dựng được một chi bộ với 3 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Văn Lưỡng làm Bí thư.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng vùng Nam Tây Nguyên và Cực Nam Trung bộ, xây dựng củng cố căn cứ cách mạng, đảm bảo tạo thế liên hoàn vững chắc, nhằm bảo vệ hành làng chiến lược Bắc - Nam. Tháng 7 năm 1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Khu ủy 6 trực thuộc Trung ương Cục miền Nam, theo đó, tháng 8 năm 1961, Khu ủy 6 quyết định thành lập tỉnh ủy Tuyên Đức. Tháng 9 năm 1961, Tỉnh ủy quyết định thành lập Huyện ủy Đức Trọng do đồng chí Ma Thu([52]) (Nguyễn Xuân Hoà) làm Bí thư và các đồng chí: Lương Văn Chinh, Trần Thành và Ma Moi làm Huyện ủy viên. Trong đó, đồng chí Trần Thành phụ trách hành lang; đồng chí Ma Moi làm Huyện đội trưởng để trực tiếp lãnh đạo trên địa bàn huyện Đức Trọng.

Sự ra đời của Huyện ủy Đức Trọng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành về chất và lượng của phong trào cách mạng trên địa bàn huyện. Từ đây, huyện Đức Trọng có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo, tạo ra thế và lực mới để đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc trong huyện, góp phần xứng đáng vào công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Đầu tháng 12 năm 1961, tỉnh ủy Tuyên Đức họp đánh giá tình hình, đề ra phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của tỉnh là: vừa tập trung sức củng cố vùng mới giải phóng, chống âm mưu dồn dân của địch, vừa đẩy mạnh hoạt động vào vùng địch kiểm soát, vừa tổ chức đánh địch, chống địch lấn chiếm vào vùng căn cứ, mở rộng vùng giải phóng đến địa bàn phía Tây huyện Đức Trọng, giáp với tỉnh Lâm Đồng (cũ); tiếp tục móc nối, xây dựng cơ sở nội ô và vùng người Kinh ven thị xã Đà Lạt.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã chỉ đạo các đội công tác nhanh chóng phát triển mở rộng phong trào đến các buôn Fisua, Prijông Tô, Fi Yàng, kéo dài theo đường 21bis lên Fisơrôn, Liên Hung và mở rộng lên phía Bắc Đam Rông, giáp với phía Nam tỉnh Đăk Lăk.

Ngày 6 tháng 4 năm 1962, trung đội đặc công của tỉnh phối hợp với một đại đội của Quân khu 6 tập kích cứ điểm Fi Yàng ở Phú Sơn, diệt gọn một trung đội dân vệ, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó, vũ trang tuyên truyền vào ấp Bằng Tiên (xã Phú Sơn) và tổ chức phục kích tại ấp Ngọc Sơn (xã Phú Sơn) chặn đánh một tiểu đoàn của Trung đoàn 53 (sư đoàn 23) vào chi viện cho Fi Yàng. Trận đánh đã có ảnh hưởng lớn trong vùng đồng bào dân tộc trên trục đường 21bis và phía Tây của huyện. Để tăng cường thêm lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tỉnh đã thành lập thêm một đội vũ trang tuyên truyền hoạt động trên đường 21bis phía Tây xã Phú Sơn.

Sau khi ta đánh tiêu diệt cứ điểm Fi Yàng, địch điên cuồng phản kích quyết liệt, chúng mở chiến dịch “Đồng tiến”, ráo riết càn quét, đánh phá và dồn khoảng 10.000 dân các buôn trên đường 21 bis, từ các buôn Fi Yàng, Fi Có, Fi Liêng lên đến buôn Rô men, Liêng Hung vào các ấp chiến lược tập trung tại các buôn Tơlăng Tô, Tơlăng Đơng, Prijong B’Liêng, Đam Pao… Nhưng sau khi địch rút, đồng bào bỏ ấp chiến lược, kéo nhau trở về buôn làng cũ; cuộc đấu tranh của đồng bào chống địch dồn dân, lập ấp chiến lược, đòi trở về buôn, làng cũ diễn ra dai dẳng, quyết liệt, một bộ phận đông đảo đồng bào ở các buôn RôMen, Pang Tang kiên quyết đi theo cách mạng, rời bỏ buôn làng cũ vào vùng giải phóng, phía Đông Bắc tỉnh Quảng Đức đến phía Nam tỉnh Đăk Lăk và phía Tây huyện Lạc Dương để làm ăn sinh sống.

Tháng 10 năm 1962, địch mở chiến dịch “An Lạc”, dùng lực lượng quân sự mạnh, đánh phá vào vùng căn cứ của ta, uy hiếp số cơ sở cốt cán cách mạng, lung lạc tinh thần đồng bào, ép buộc đồng bào vào các ấp chiến lược tập trung. Chúng sử dụng một tiểu đoàn của Trung đoàn 53 (sư đoàn 23) và một trung đội dân vệ, có pháo binh yểm trợ đổ quân xuống Đam Rông, xây dựng cứ điểm dã ngoại của Bộ chỉ huy chiến dịch, tổ chức càn quét, đánh phá hành lang chiến lược Bắc -Nam và căn cứ của Tỉnh ủy Tuyên Đức và Khu ủy Khu 6 đóng chung quanh khu vực Đam Rông.

Trước tình hình đó, tháng 11 năm 1962, Khu ủy Khu 6 chủ trương tiêu diệt cứ điểm Đam Rông, ngăn chặn âm mưu dồn dân và phá các khu tập trung dân của địch. Đêm ngày 5 rạng sáng ngày 6 tháng 12 năm 1962, ta sử dụng 2 tiểu đoàn 840 và 186 của Quân khu 6, phối hợp với đại đội 143 và trung đội đặc công của tỉnh tập kích cứ điểm Đam Rông, ta tiêu diệt hơn 300 tên địch, phá hủy 2 khẩu pháo 105 ly. Đây là một trận đánh giành được thắng lợi lớn, là trận đánh mở màn, góp phần làm phá sản kế hoạch Stalây - Taylo của Mỹ - Diệm ở miền Nam, chấn động mạnh đến hàng ngũ của địch, làm cho nhiều sĩ quan, binh sĩ của địch lo sợ. Để trấn an tinh thần của ngụy quân, ngay ngày hôm sau, 06 tháng 12 năm 1962, địch phản kích quyết liệt, chúng sử dụng máy bay trực thăng chở một lực lượng lớn của sư đoàn 23 đổ quân càn quét, giải tỏa và xúc dân vùng Đam Rông về vùng chúng kiểm soát.

Trên trục đường 20 từ ấp Định An đến các ấp Quảng Hiệp, Phú Thạnh,… các đội mũi công tác hướng Tây Nam của thị xã Đà Lạt, bằng phương thức “cầu chuyền”, “bắt rễ xâu chuỗi”, ta đột nhập vào bên trong các buôn, ấp trong vùng địch kiểm soát để tuyên truyền, vận động, móc nối, xây dựng cơ sở. Đến giữa năm 1962, toàn bộ số cơ sở bị đứt liên lạc từ các năm trước đã được móc nối, hoạt động trở lại, phát triển thêm một số cơ sở mới và xây dựng được một chi bộ với 3 đảng viên trong nhà máy sứ Vĩnh Tường.

Hoạt động chủ yếu của chi bộ Quảng Hiệp, chi bộ nhà máy sứ Vĩnh Tường và các cơ sở ở các ấp Định An, Phú Thạnh là vận động thanh niên thoát ly tham gia vào các đơn vị lực lượng vũ trang và các đội mũi công tác, vận động quần chúng đấu tranh chống địch, tổ chức tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men… cho cách mạng. Cũng trong thời gian này, ta đẩy mạnh hoạt động diệt ác, phá kìm.

Sau khi cứ điểm Đam Rông bị ta tấn công tiêu diệt, trong năm 1963, địch tập trung 2 tiểu đoàn của trung đoàn 53 (sư đoàn 23), các đại đội bảo an, các trung đội dân vệ, mở các đợt phản kích với quy mô lớn, càn quét vào vùng giải phóng, các khu căn cứ của ta. Chúng sử dụng pháo binh, máy bay bắn rôcket, ném bom, đốt phá các buôn làng của đồng bào dân tộc; càn quét đánh phá đến đâu, chúng cưỡng bức, xúc dân, gom dân từ các buôn FiCó, FiLiêng, Fi Yàng đến các buôn Pang Tang, Rômen, Prijong Tô, Prijong B’Liêng, Fisua, Fisrôn, Liên Hung… vào các khu tập trung, ấp chiến lược tại xã N’Thol Hạ và các ấp Đạ Brết, Bờ nông Rết, Sêrignăc… Đến giữa tháng 5 năm 1963, địch đã cơ bản hình thành được 6 trong tổng số 14 khu tập trung, ấp chiến lược với trên 15.000 dân. Đồng thời, chúng ráo riết kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển lương thực, thực phẩm từ vùng này sang vùng khác, nhằm siết chặt, bao vây kinh tế, làm cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong vùng căn cứ thiếu gạo, muối… nghiêm trọng. Để chống đói, các đội công tác phải lấy rau rừng, lấy bột từ cây xà pu, đùng đình để ăn thay cơm; sự thiếu thốn đó đã làm cho một số cán bộ, chiến sĩ bi quan, dao động. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chỉ đạo Huyện ủy Đức Trọng tập trung lãnh đạo công tác giáo dục chính trị, động viên tư tưởng, xây dựng ý chí cách mạng tiến công cho cán bộ, chiến sĩ.

Đến đầu tháng 5 năm 1963, vùng căn cứ của huyện Đức Trọng chỉ còn hơn 100 người dân của các buôn: Pang Tang, Đạ Xị, Rômen, Rao, Ring… do đó, tháng 5 năm 1963, Khu ủy 6 quyết định tạm giao huyện Đức Trọng cho Tỉnh ủy Quảng Đức quản lý chỉ đạo và thu gọn Tỉnh ủy Tuyên Đức thành Ban cán sự Đảng Tuyên Đức - Đà Lạt để tập trung chỉ đạo phong trào nội ô và vùng đồng bào kinh ven thị xã Đà Lạt.

Tình hình trên cho thấy phong trào cách mạng trên địa bàn huyện Đức Trọng trong giai đoạn này còn có những mặt hạn chế. Ngay từ khi thực hiện chủ trương xây dựng cơ sở, phát triển phong trào cách mạng, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng các khu căn cứ Cực Nam Trung bộ với Tây Nguyên, ta đã mở ra một vùng giải phóng, vùng căn cứ rộng lớn trên địa bàn phía Tây và Tây Bắc của huyện nhưng không kịp thời xây dựng, củng cố; cơ sở, cốt cán cách mạng còn mỏng và yếu; chính quyền tự quản của quần chúng trong các buôn làng còn mang tính hình thức, chất lượng thấp; lực lượng vũ trang và cán bộ của tỉnh, của huyện và các đội công tác còn ít và chưa đủ sức để đấu tranh, đánh trả địch, giữ dân, bảo vệ vùng giải phóng. Trong khi đó, đồng bào dân tộc thiểu số trình độ nhận thức và giác ngộ cách mạng còn hạn chế và phần lớn theo đạo Tin Lành, Cơ Đốc bị địch lợi dụng thần quyền giáo lý và cài cắm tay chân vào các chức sắc tôn giáo để khống chế, lừa mỵ, lôi kéo, dụ dỗ nhân dân cùng với các hoạt động đánh phá, càn quét quyết liệt vào vùng giải phóng của ta, nên phong trào cách mạng của địa phương gặp rất nhiều khó khăn, thử thách.

 

II. ĐẨY MẠNH DIỆT ÁC, PHÁ KÌM; LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC TRỞ VỀ BUÔN LÀNG CŨ

Sau khi tạm giao huyện Đức Trọng cho Tỉnh ủy Quảng Đức quản lý chỉ đạo, Huyện ủy Đức Trọng do đồng chí Ama Ding (Ngô Đức Đề)([53]), Bí thư Huyện ủy chủ trì mở hội nghị kiểm điểm, đánh giá tình hình, đề ra để ra chủ trương, nhiệm vụ trong tình mới. Hội nghị quyết định chuyển cơ quan Huyện ủy Đức Trọng về phía Đông núi Tà Đùng, dựa vào địa bàn đứng chân của đội công tác Kon Phăng để tạo thế củng cố và phát triển phong trào, tổ chức, bổ sung lực lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Sau một thời gian hoạt động, củng cố lực lượng, đến tháng 11 năm 1963, trên địa bàn huyện đã thành lập thêm được 2 chi bộ: Pang Tang và R’Chai  với 7 đảng viên và xây dựng được 3 chi đoàn, 3 tiểu đội du kích của 3 buôn, hình thành đội sản xuất tại căn cứ tổ chức sản xuất sắn (mì), bắp (ngô). Tuy nhiên trong thời gian này cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong vùng căn cứ gặp rất nhiều khó khăn, nhất là không có muối ăn, thiếu đói trong những tháng giáp hạt nhưng nhân dân vẫn giữ vững niềm tin vào cách mạng, kiên trì bám trụ, xây dựng căn cứ và giúp đỡ cách mạng về lương thực, thực phẩm.

Cuối năm 1963, Khu ủy 6 điều động một số cán bộ, đảng viên của huyện Đức Trọng bổ sung cho thị xã Đà Lạt; số cán bộ, đảng viên của huyện Đức Trọng lúc này chỉ còn 16 đồng chí([54]). Cơ quan Huyện ủy có 12 đảng viên, trong đó có 9 đồng chí người kinh, 3 đồng chí là người dân tộc. Bộ máy Huyện ủy được thu gọn thành Ban Cán sự Đảng huyện Đức Trọng gồm 3 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Nghĩa Phương([55]) làm Bí thư, đồng chí Ngô Đức Đề và đồng chí Thông làm ủy viên.

Được sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời của Tỉnh ủy, sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với các đội công tác của tỉnh và do tác động của tình hình chung trên chiến trường toàn miền Nam, nhất là phong trào diệt ác, phá kìm, đánh phá ấp chiến lược, đấu tranh bung về làng cũ làm ăn của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các đội công tác trên địa bàn phát động quần chúng, mở rộng địa bàn hoạt động, nắm được dân ở nhiều xã, ấp.

Đầu năm 1964, sau khi được sắp xếp, củng cố tổ chức, Ban Cán sự Đảng huyện Đức Trọng chủ trương giữ nguyên đội công tác Fi Yàng để xây dựng, phát triển cơ sở trên địa bàn xã Phú Sơn; điều chuyển một số cán bộ của đội công tác Pang Tang và một số cán bộ người Kinh của các đội công tác Kon Phăng, K’Lanh Hai để thành lập mới một đội công tác làm nhiệm vụ vận động công nhân khai thác mủ ngo (nhựa thông) trên đường 21bis; móc nối, củng cố các cơ sở ở xã Phú Sơn và tìm cách xâm nhập vào xây dựng cơ sở trong ấp chiến lược Đạ Brết, tạo thế để phát triển mở rộng phong trào. Các đội công tác còn lại, tiếp tục làm nhiệm vụ xây dựng, củng cố phong trào ở các buôn Kon Phăng và K’Lanh Hai.

Sau một thời gian tích cực tuyên truyền, vận động, đội công tác đã xây dựng được một số cơ sở trong công nhân khai thác mủ ngo và đồng bào trong ấp chiến lược Đạ Brết.

 Tại xã Phú Sơn, từ 3 cơ sở ở làng Phú Mỹ, thông qua mối quan hệ họ hàng thân thích, ta xây dựng được nhiều cơ sở trong những người thân của các gia đình cơ sở, tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển phong trào xuống ấp An Phước; trong thời gian này, phong trào cách mạng ở các buôn Kon Phăng, K’Lanh Hai được củng cố vững chắc.

 Trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bắt đầu có những cuộc nổi dậy diệt ác, phá kìm, đánh phá ấp chiến lược. Ở PrơTeng, đội công tác nhiều lần đột ấp, vũ trang tuyên truyền và hỗ trợ đồng bào dân tộc vùng dậy đấu tranh, cô lập và bức rút đồn PrơTeng của địch, đánh phá ấp chiến lược, trở về buôn làng cũ làm ăn. Sau khi đồng bào trở về buôn làng cũ, đội công tác tổ chức lãnh đạo, hướng dẫn đồng bào lợi dụng địa hình hiểm trở, tổ chức bố phòng và bố trí canh gác, bảo vệ chặt chẽ nên địch không càn quét, gom dân được để xây dựng lại ấp chiến lược, từ đây buôn PrơTeng trở thành vùng giải phóng của ta. Lực lượng du kích phối hợp với đơn vị A68 tổ chức gài mìn trên đường 21bis, đánh diệt 1 xe GMC của địch tại buôn Liên Hung. Trên hướng đường 20, Tỉnh ủy quyết định điều một trung đội của đại đội 810 sang thành lập các đội vũ trang tuyên truyền ở khu vực Nam Ban và làm nhiệm vụ tổ chức đột ấp, vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở ở các ấp Phú Thạnh, Quảng Hiệp, Định An, Bồng Lai…

Cuối năm 1964, thực hiện chủ trương đẩy mạnh diệt ác, phá kìm, tấn công làm tê liệt, tan rã bộ máy tề, điệp, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, đã thúc đẩy phong trào trên địa bàn huyện lên bước phát triển mới. Tại các ấp Phú Thạnh, Quảng Hiệp, Định An, Gia Thạnh,... đội công tác thường đóng giả biệt kích hoặc lính quận về ấp để bắt, diệt bọn tề, điệp ác ôn. Trên đường 21bis, thông qua cơ sở, ta tiến hành vận động thuyết phục đồng bào trong các khu tập trung ở các ấp chiến lược Phi Liêng, Đam Pao, Đạ Brết nổi dậy, đấu tranh đòi trở về buôn làng cũ, đòi được tự do làm rẫy ở ngoài khu tập trung.

Vừa xây dựng, củng cố, vừa đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác, nhiều nơi như ở các ấp Phú Thạnh, Quảng Hiệp, Định An (xã Hiệp Thạnh), Gia Thạnh (xã Bình Thạnh), các ấp của xã Phú Sơn, buôn Côi Gia (xã Đinh Văn)… nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đã phát hiện, xây dựng được cơ sở, cốt cán trung kiên, làm nòng cốt trong phong trào quần chúng, tạo thành chỗ dựa vững chắc để đẩy mạnh diệt ác, phá kìm, tạo thế cho nhân dân đứng lên làm chủ, hạn chế và uy hiếp được bọn tề điệp, không để chúng hung hăng kìm kẹp, ức hiếp nhân dân. Ở những buôn, ấp nhân dân giữ vững được thế làm chủ, lập ra được các ban tự quản, các đoàn thể cách mạng như Hội liên hiệp Phụ nữ giải phóng, Hội Liên hiệp Nông dân giải phóng. Nhất là Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng phát triển mạnh từ các ấp Quảng Hiệp, Bồng Lai đến ấp Gia Thạnh (xã Bình Thạnh) và các ấp của xã Phú Sơn. Riêng phụ nữ ấp Gia Thạnh đã xây dựng được cơ sở làm tốt công tác binh, địch vận… Sau khi phong trào có bước phát triển khá vững chắc ở nhiều buôn, ấp đã đảm bảo được việc cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men cho các đội công tác, đơn vị vũ trang hoạt động trên địa bàn. Trong đó, phụ nữ ấp Bồng Lai đã dũng cảm vượt qua khó khăn, kiên trì cung cấp được nhiều lương thực, thực phẩm cho các cơ quan của tỉnh Tuyên Đức.

Đi đôi với xây dựng cơ sở, thực lực cách mạng, phát triển phong trào, mở rộng địa bàn hoạt động, công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên mới được chú trọng, đạt nhiều kết quả rõ nét. Đến cuối năm 1964, đã phát triển được 17 đảng viên, trong đó có 3 đảng viên là người dân tộc thiểu số; thành lập mới 4 chi bộ của 4 đội công tác với 21 đảng viên. Các chi bộ mới thành lập đều phát huy tốt vai trò là hạt nhân chính trị, lãnh đạo phong trào cách mạng ở những vùng nhân dân làm chủ.

Trong những tháng đầu năm 1965, địch ra sức đẩy mạnh đôn quân, bắt lính, tăng cuờng thêm quân đóng giữ tại các cứ điểm Fisơrôn, Đam Pao, Fi Sua, chi khu Đức Trọng, mỗi cứ điểm từ một trung đội tăng lên một đại đội bảo an hoặc biệt kích chốt giữ. Tại chi khu Đức Trọng, thường xuyên có quân số lên cấp tiểu đoàn. Tại trung tâm huấn luyện bảo an - dân vệ liên tỉnh ở Liên Khương, có một tiểu đoàn tân binh đang huấn luyện; được trang bị xe tăng, xe bọc thép và cối 61, 82 ly, pháo 105 ly, sẵn sàng hỗ trợ các cuộc hành quân, càn quét, đánh phá trên địa bàn huyện. Ở mỗi xã, chúng bố trí từ 1 đến 2 trung đội dân vệ; xây thêm lô cốt, củng cố hệ thống hầm hào để chốt giữ tại các đồn: Quảng Hiệp, Định An, Đại Đờn. Tại cầu Đại Ninh và Phi Nôm, chúng xây dựng các lô cốt và bố trí dân vệ chốt giữ.

Đồng thời, chúng thường xuyên tung bọn bình định nông thôn, cảnh sát lùng sục, đánh phá cơ sở cách mạng trong các buôn, ấp; tung biệt kích, thám báo, phục kích, đánh chặn các đội công tác trên các con đường dẫn vào các buôn, ấp để ngăn chặn ta đột ấp và tổ chức luồn sâu, đánh phá vào căn cứ, các khu vực đóng quân, các vị trí đứng chân hoạt động của các cơ quan, đơn vị, các đội công tác của ta. Mở các lớp huấn luyện mật vụ đội lốt “đội diệt trừ sốt rét” ở Lữ quán thanh niên Đà Lạt; các lớp đào tạo điệp báo đội lốt mục sư, thầy giảng tại Trường “giáo sĩ” đạo Tin lành tại Trại Hầm (nay là trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng) tung về các buôn, ấp hoạt động, lôi kéo quần chúng vào đạo và cho các “đội diệt trừ sốt rét” len lỏi đến từng nhà thăm nắm tình hình, lùng sục, tìm kiếm cơ sở cách mạng để đánh phá.

Trên lĩnh vực kinh tế, chúng thực hiện bán gạo hạn chế theo sổ gia đình, cấm nhân dân vận chuyển lương thực từ nơi này đến nơi khác. Ngoài ra, chúng còn thực hiện chính sách tăng thuế, ra sức mua gom, vơ vét lương thực, thực phẩm([56]) nhằm bao vây, triệt cắt nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cách mạng.

Những âm mưu, thủ đoạn chính trị, quân sự và chính sách bao vây kinh tế, phá hoại sản xuất của địch làm cho nhân dân gặp khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc ở Phi Liêng, Fi Yàng.

Trước tình hình đó, Ban Cán sự Đảng tỉnh Tuyên Đức đã xác định nhiệm vụ trọng tâm trong năm 1965 là: Tiếp tục đánh địch, phá ấp chiến lược, diệt ác, phá kìm, xây dựng cơ sở bên trong, rút thanh niên thoát ly để xây dựng lực lượng; đẩy mạnh sản xuất vùng căn cứ, tăng cường bố phòng, chống địch càn quét.

Ở huyện Đức Trọng, các đội công tác được củng cố, sắp xếp lại thành 3 đội công tác, biến chế mỗi đội từ 3 đến 5 đồng chí([57]). Đội công tác khu vực Phú Sơn do đồng chí Ama Ding phụ trách, đội công tác khu vực Đạ Brết do đồng chí Thông phụ trách và một đội công tác phụ trách khu vực các buôn Kon Phăng, K’Lanh Hai.

Để phong trào phát triển, đưa quần chúng lên thế làm chủ, ta tổ chức nhiều cuộc tấn công địch ở khắp nơi, có sự phối hợp giữa các lực lượng vũ trang tuyên truyền với đấu tranh chính trị của quần chúng đòi trở về làng cũ làm ăn, không vào sống trong khu tập trung. Ngày 13 tháng 2 năm 1965, đại đội 810 phối hợp với quần chúng đánh phá ấp chiến lược Hoạch, diệt gọn trung đội dân vệ thu 8 súng, phá hàng trăm mét rào giải phóng dân.

Cũng trong thời gian này, phong trào đô thị Đà Lạt phát triển mạnh, mở rộng cơ sở đến ấp Phú Thuận (trên đường 11) và nhất là sau khi ta tấn công phá ấp chiến lược ở các ấp Xuân Sơn, Xuân Thành giành thắng lợi, đã mở ra phong trào phá ấp chiến lược, diệt ác, phá kìm phát triển mạnh trên dọc trục đường 20, từ buôn K’Long B đến các ấp Quảng Hiệp, Phú Thạnh, Bồng Lai, nhân dân đã phá hàng trăm mét rào ấp chiến lược để bung ra; những nơi chưa bị địch dồn dân vào khu tập trung, nhân dân kiên quyết đấu tranh đòi tự do đi lại, chống xét hỏi, phạt vạ.

Đồng bào ở các ấp: Quảng Hiệp, Phú Thạnh, Định An… kéo đến trụ sở ngụy quyền ở xã, đấu tranh chống địch xây đồn bót, đòi được mua gạo không hạn chế. Tại các buôn đồng bào dân tộc thiểu số cũng diễn ra nhiều cuộc đấu tranh đòi trở về buôn làng cũ làm ăn, kết quả thu được những thắng lợi bước đầu, đã tạo được khí thế phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân và ảnh hưởng đến nhiều địa phương khác, thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng phát triển cả bề rộng và chiều sâu, qua đó phát hiện thêm những nhân tố mới, tích cực, bổ sung xây dựng đội ngũ cơ sở, cốt cán trong quần chúng, huy động sức người, sức của và bổ sung lực lượng tham gia kháng chiến. Từ những cơ sở ban đầu ở các ấp Quảng Hiệp, Định An… đã phát triển đến các ấp Phú Thạnh (xã Hiệp Thạnh), Bồng Lai, Suối Thông B (xã Thạnh Mỹ) và xã Ka Đô (huyện Đơn Dương), tạo thành một địa bàn vùng ven rộng lớn làm bàn đạp chỉ đạo phong trào vào nội ô thị xã Đà Lạt.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương III

CHUYỂN HƯỚNG ĐẤU TRANH, PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG,

MỞ RỘNG PHONG TRÀO, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC               “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (7/1965-12/1968)

 

I. KẾT HỢP HOẠT ĐỘNG VŨ TRANG VÀ NỔI DẬY CỦA QUẦN CHÚNG PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC, DIỆT ÁC, PHÁ KÌM, TÍCH CỰC MỞ RỘNG PHONG TRÀO, XÂY DỰNG CƠ SỞ, CỐT CÁN VỮNG MẠNH

Để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng những đòi hỏi của yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng mới, tháng 10 năm 1965, Khu uỷ Khu 6 quyết định thành lập lại Tỉnh ủy Tuyên Đức, đồng thời chuyển giao huyện Đức Trọng về tỉnh Tuyên Đức chỉ đạo. Đây là sự kiện quan trọng đối với công tác tổ chức, đảm bảo yêu cầu lãnh đạo phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng và tỉnh Tuyên Đức trong thời kỳ phát triển mới.

 Ngày 5/12/1965, Tỉnh uỷ Tuyên Đức chuyển từ căn cứ huyện Lạc Dương về đứng chân tại khu vực Nam Lán Tranh (Tây Nam huyện Đức Trọng). Sau khi ổn định địa bàn đứng chân, Tỉnh ủy Tuyên Đức họp quán triệt Nghị quyết Trung ương 12 và các nghị quyết của Trung ương Cục, Khu ủy 6 và liên hệ kiểm điểm, đánh giá sâu sắc tình hình ở địa phương. Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ chủ yếu của năm 1966 là: Đẩy mạnh hoạt động của lực lượng vũ trang, phối hợp cùng với các đội công tác đánh phá ấp chiến lược trên đường 11, 20, 21bis theo phương châm “hai chân ba mũi”, đưa lên diện làm chủ và giải phóng khoảng 15.000 dân để tạo thế xây dựng căn cứ huyện Đức Trọng và hành lang nối liền với bàn đạp phía Nam và Tây Nam thị xã Đà Lạt. Đối với Đà Lạt, đẩy mạnh hoạt động quân sự tại các khu vực sát ngoại ô thị xã để hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị trong nội thị, buộc địch phải co giữ Đà Lạt, tạo điều kiện cho ta phá ấp, giành dân ở vùng nông thôn. Ở hậu cứ, các cơ quan đẩy mạnh tăng gia sản xuất, vận chuyển số lương thực của tỉnh Lâm Đồng chi viện để đảm bảo đủ lương thực cho các cơ quan và chuẩn bị đón lực lượng của trên bổ sung cho tỉnh.

 Sau hội nghị, Tỉnh ủy Tuyên Đức quyết định thành lập lại Huyện ủy Đức Trọng gồm 7 đồng chí, đồng chí Nguyễn Nghĩa Phương làm Bí thư. Đồng thời, thành lập 5 đội công tác trực thuộc Huyện ủy với 30 đồng chí: đội Nam Sơn - Tùng Nghĩa do đồng chí Ái phụ trách; đội Tân Văn - Đạ Prết do đồng chí Hải Sơn phụ trách; đội Đạ Đờn - Phú Sơn do đồng chí Hớn đảm nhiệm; đội công tác do đồng chí Ngô Đức Đề làm đội trưởng, phụ trách từ ấp Gia Thạnh đến cây số 3 trên đường 21 bis và đội công tác do đồng chí Lương Văn Chinh làm đội trưởng từ Quảng Đức chuyển sang hoạt động trên địa bàn huyện Đức Trọng. Trên cơ sở lực lượng được bổ sung, các cơ quan, đơn vị của huyện Đức Trọng được sắp xếp, củng cố tổ chức, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quán triệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 12, Nghị quyết hội ghị Trung ương Cục lần thứ 4, các Nghị quyết của Khu ủy 6 và Tỉnh ủy Tuyên Đức, Huyện ủy đã chỉ đạo các đội công tác, các cơ quan và đơn vị vũ trang của huyện tiến hành đợt học tập chính trị, trong đó quán triệt sâu kỹ tài liệu 3 dân chủ lớn (quân sự, chính trị, kinh tế) và tài liệu xây dựng Đảng nhằm xây dựng chi bộ 5 tốt ở cơ quan, 3 tốt trong lực lượng vũ trang, 4 tốt ở các địa phương và xây dựng đảng viên 3 tốt, đoàn thanh niên tiên tiến, tạo sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và chiến sĩ. Phương thức hoạt động: Bộ đội địa phương cùng các đội công tác kiên trì bám trụ, diệt ác, trừ gian, xây dựng cơ sở, phát động quần chúng đấu tranh chống địch, đảm bảo an toàn vùng căn cứ của tỉnh.

Trong những tháng cuối năm 1965, công tác vũ trang tuyên truyền, diệt ác, trừ gian và đánh phá ấp chiến lược được đẩy mạnh. Ban ngày, địch tổ chức rào làng, đào hào, cắm chông, tối về ta tổ chức cho nhân dân đốt phá, lặp đi lặp lại nhiều lần, kết quả là địch không thực hiện được việc lập ấp chiến lược ở Quảng Hiệp, Bồng Lai và bỏ dở việc lập ấp chiến lược ở thôn Phú Thạnh.

Tại ngã ba Phi Nôm, để ngăn chặn việc đi lại của nhân dân và hoạt động của cách mạng, địch đưa 1 trung đội lính bảo an đến đóng đồn và kiểm tra, lục soát gắt gao việc đi lại của nhân dân. Tháng 11 năm 1965, lực lượng vũ trang của tỉnh tập kích đồn Phi Nôm, diệt và làm bị thương 8 tên, thu 3 súng.

Phối hợp với hoạt động vũ trang, phong trào quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm diễn ra nhiều nơi. Các cơ sở cách mạng đã vận động các bà, các chị ở các ấp Quảng Hiệp, Bồng Lai kéo lên quận đấu tranh đòi địch thả chồng, con, em đã bị chúng bắt. Trước lý lẽ cứng rắn và áp lực mạnh mẽ của quần chúng, địch phải thả số người bị bắt. Sau cuộc đấu tranh này, quần chúng ở các ấp Quảng Hiệp, Bồng Lai lấy cớ tình hình an ninh không đảm bảo rủ nhau bỏ ấp, bung ra ngoài làm ăn. Cùng thời gian này, đại đội 810 phối hợp với cơ sở bên trong ở ấp Quảng Hiệp diệt gọn một trung đội dân vệ đóng chốt tại ấp Quảng Hiệp và thu được nhiều vũ khí các loại.

Với kết quả hoạt động vũ trang và đấu tranh chính trị trong 6 tháng cuối năm 1965, các lực lượng vũ trang và nhân dân xã Hiệp Thạnh đã tiêu diệt, phá hủy được một số đồn, bót, ấp chiến lược của địch, gây tổn thất về lực lượng và ngăn chặn, phá vỡ âm mưu, thủ đoạn của chúng, góp phần cùng nhân dân trong tỉnh làm thất bại âm mưu “tìm diệt” và “bình định” của địch.

 Đầu năm 1966, tỉnh uỷ Tuyên Đức, thị uỷ Đà Lạt tăng cường thêm cán bộ cho các đội công tác trên địa bàn huyện, trong đó chủ yếu là địa bàn xã Hiệp Thạnh, tích cực củng cố những cơ sở hiện có và phát triển thêm một số cơ sở mới; phong trào diệt ác, phá kìm và phong trào đấu tranh của quần chúng chống địch rào làng (rào ấp) phát triển mạnh. Cơ sở của ta ở nhà máy sứ Vĩnh Tường đã vận động, thuyết phục được ông Ysachi-Phó Giám đốc và ông Hama Yôtô - Kỹ sư trưởng của nhà máy che giấu, tiếp nhận số thanh niên trốn lính vào làm công nhân trong nhà máy và nhận thường xuyên hỗ trợ, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cách mạng.

Ở K’Long, được cơ sở quần chúng mật báo, ngày 16 tháng 1 năm 1966, lượng vũ trang của tỉnh (đơn vị 810) đánh tập kích đoàn “Trường Sơn”([58]), diệt một tiểu đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Công tác diệt ác, phá kìm được đẩy mạnh, tiêu biểu là ta tổ chức diệt tên Phó Trưởng Ban an ninh chi khu Đức Trọng. Khoảng 8 giờ sáng ngày 22 tháng 5 năm 1966, tên Phó Trưởng Ban an ninh chi khu cùng đi với một tên cảnh sát quận, khi vừa vào đầu ấp, ta đã nổ súng tiêu diệt. Để uy hiếp tinh thần quần chúng và trả thù cho hai tên ác ôn bị diệt, trưa hôm đó, địch điều lính dân vệ và cảnh sát quận về xả súng bắn vào làng và lùng sục khắp nơi trong ấp nhưng không phát hiện được gì, chúng tức tối bắt dân tập trung tại khu vực lô 14 và bắt gần 30 người đưa về chi khu hù doạ, khai thác. Chiều cùng ngày, chúng tổ chức lực lượng hành quân, có máy bay ném bom hỗ trợ đánh phá khu rừng phía sau ấp và núi Voi.

Cuối năm 1966, đội công tác do đồng chí Lê Phượng phụ trách vũ trang tuyên truyền khu cư xá công nhân nhà máy sứ Vĩnh Tường (nay là nhà máy sứ Lâm Đồng). Ở Định An, diệt tên trung đội trưởng và tên ấp trưởng Định An, làm bị thương một số tên khác; lập bản án cảnh cáo tên Kiểm và bao vây, kêu gọi, thu toàn bộ vũ khí của tiểu đội gác cầu P’renn.

Tại các ấp Gia Thạnh, Phú Hội, Phú Sơn, Soan, Đạ Huynh… các đội vũ trang bám vào trong ấp đẩy mạnh hoạt động diệt ác, trừ gian gây thanh thế cho phong trào quần chúng đấu tranh chính trị. Nhiều nơi trong vùng đồng bào dân tộc nổ ra những cuộc đấu tranh chống phạt vạ, đòi tự do đi lại làm ăn. Phong trào các đoàn thể quần chúng, nhất là Hội Phụ nữ giải phóng phát triển mạnh suốt hai năm 1965-1966, số phụ nữ làm binh vận ngày càng tăng. Trong các ngày lễ như ngày Phật đản, Noel và trong đợt tấn công chính trị đông xuân 1965 - 1966, số truyền đơn phát tán tới gia đình binh lính, sĩ quan và nhân viên chính quyền ngụy nhiều hơn. Riêng ở ấp Định An, thông qua tuyên truyền giáo dục, vận động ta đã xây dựng được cơ sở trong hàng ngũ địch.

Hoạt động diệt ác, phá kìm đã tạo điều kiện phong trào bên trong phát triển mạnh ở địa bàn các ấp Quảng Hiệp, Bồng Lai, Gia Thạnh, Phú Sơn…, nhiều nơi ta đã đưa lên thế tranh chấp mạnh, có nơi ở thế làm chủ như ở các ấp Quảng Hiệp, Định An và Gia Thạnh.

Năm 1966, công tác xây dựng Đảng phát triển khá, ta tổ chức kết nạp được 6 đảng viên mới, thành lập thêm 2 chi bộ: Gia Thạnh và Côi Gia. Riêng chi bộ Côi Gia do đồng chí K’Xẹp, một nữ đảng viên người dân tộc làm Bí thư, nâng tổng số lên 7 chi bộ trực thuộc Đảng bộ huyện.

Phong trào quần chúng phát triển mạnh, nhiều thanh niên nam nữ được giác ngộ đã tình nguyện thoát ly, bổ sung vào lực lượng các đội công tác, các đơn vị lực lượng vũ trang của huyện.

Tuy phong trào phát triển khá, liên tục đánh phá ấp chiến lược, từng bước phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch, công tác xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng cách mạng tại chỗ có hiệu quả và ngày càng đi vào chiều sâu, nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, đảm bảo hành lang liên lạc giữa Khu ủy 6 với Tỉnh ủy Tuyên Đức. Song do lực lượng còn ít, vừa được củng cố, trong khi thường xuyên bị địch càn quét, đánh phá, dồn dân, xúc dân nên việc giải phóng nhân dân để tạo thế xây dựng căn cứ chưa đạt được mục tiêu Nghị quyết của Tỉnh ủy đề ra.

Trong mùa khô 1966-1967, địch ráo riết tăng cường thực hiện kế hoạch “tìm diệt và bình định”, song “bình định” là cơ bản. Tại hầu hết các buôn, ấp trong huyện đều bố trí bọn bảo an, dân vệ hoặc biệt kích đóng giữ và chúng huy động lực lượng của tổng đoàn dân vệ, các đoàn bình định xuống tăng cường những địa bàn trọng yếu hoặc những nơi bộ máy kìm của chúng suy yếu, chúng bắt đồng bào phải đào hào, đắp lũy, chặt tre, vót chông để lập ấp chiến lược. Có nơi để dồn dân, địch vừa đốt phá nhà cửa, ruộng vườn của dân, vừa sử dụng cả máy bay xúc dân đưa vào ấp các ấp chiến lược và tăng cường hoạt động của bọn tề điệp để theo dõi, kiểm soát gắt gao đối với nhân dân.

Đi đôi với thủ đoạn gom dân lập ấp chiến lược để thực hiện âm mưu “tát nước, bắt cá”, địch tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét, đánh phá, đẩy lực lượng của ta ra khỏi địa bàn hoạt động nhằm yểm trợ chương trình bình định, chúng ráo riết thực hiện bao vây kinh tế, triệt cắt tiếp tế của ta.

Nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của địch, cuối năm 1966, Tỉnh ủy Tuyên Đức họp kiểm điểm, đánh giá rõ tình hình và đề ra nhiệm vụ: “Tích cực tấn công địch ở phía trước, lập thế bám trụ vững chắc của lực lượng vũ trang và các đội công tác trên các địa bàn quy định, bám sát dân, sát địch, đánh trúng, đánh đau vào các đoàn bình định, tề điệp ác ôn, những đối tượng kìm; phát động quần chúng phá ấp, phá kìm, chống lại âm mưu “bình định”, gom dân, lấn chiếm của địch, xây dựng cơ sở chính trị, vũ trang tại chỗ. Địa bàn hoạt động đánh địch là vùng tranh chấp, trục giao thông, vùng yếu và thị xã, trọng điểm hoạt động của tỉnh là dọc đường 21 bis, đường 11”.

 Qua phân tích tình hình và căn cứ yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, Hội nghị xác định: “Địa bàn huyện Đức Trọng là trọng điểm để xây dựng bàn đạp, tạo thế  đứng chân chỉ đạo, hỗ trợ phong trào nội ô Đà Lạt”. 

Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 1967, bên cạnh những thuận lợi cũng còn những khó khăn lớn, cần phải tập trung giải quyết; nhất là vấn đề lương thực, đến cuối năm 1966 vùng giải phóng được mở rộng nhưng số dân vùng giải phóng và căn cứ ít nên sản lượng lương thực sản xuất ra không đủ cung cấp. Địch lại siết chặt bao vây kinh tế, hạn chế việc bán gạo cho dân, mỗi hộ nhân dân phải mua gạo theo sổ gia đình, do đó nhân dân và cơ sở của ta không tiếp tế được lương thực cho các cơ quan, các đội công tác và lực lượng vũ trang.

Để thực hiện chủ trương, nhiệm vụ trong tình hình mới, theo sự chỉ đạo của Khu ủy 6, ngày 01 tháng 01 năm 1967, Tỉnh ủy Tuyên Đức phân công đồng chí Thu Lâm (Trần Ngọc Trác) về làm Bí thư Huyện ủy, các đồng chí: Hà Toàn, Nguyễn Đăng Triêm về tăng cường cho lực lượng vũ trang của huyện. Huyện ủy quyết định chuyển cơ quan chỉ đạo của huyện về đứng chân ở vùng thác Pongour và biên chế, sắp xếp lại các đội công tác thành 4 đội phụ trách các địa bàn: Phú Sơn, Đạ Brêt, Gia Thạnh và Nam Sơn; thành lập Huyện đội Đức Trọng do đồng chí Nguyễn Hồng làm Huyện đội trưởng, thành lập đại đội 816 do đồng chí Nguyễn Đăng Triêm làm Đại đội trưởng.

Sau khi sắp xếp lại tổ chức, bố trí lại lực lượng và củng cố địa bàn đứng chân, Huyện ủy chỉ đạo lực lượng vũ trang, các đội công tác phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, liên tục và kiên trì bám sát địa bàn, tổ chức đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, đột ấp, phá kìm gắn với công tác vũ trang tuyên truyền để xây dựng cơ sở, phát triển phong trào, đồng thời giải quyết cơ bản vấn đề lương thực.

Các đơn vị liên tục đột ấp đánh địch và vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở, cốt cán trong các ấp, phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch ở các ấp từ Thanh Bình đến Phú Sơn.

Tháng 6 năm 1967, đại đội 816 của huyện phối hợp với đại đội 810 của tỉnh đánh tiêu diệt các đồn Phi Sua B và Prijông Tô, giải phóng hơn 800 dân([59]). Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang phối hợp với các đội công tác đột kích, vũ trang tuyên truyền, phá kìm ở các buôn Pang Tang, Bang Bế, Tà Nung… để xây dựng cơ sở, cốt cán. Nhưng sau đó, địch huy động thêm quân, có máy bay và xe bọc thép hỗ trợ càn quét, gom dân, xúc dân về các khu tập trung, ấp chiến lược ở các buôn Gần Reo (xã Liên Hiệp), R’Chai (xã Phú Hội)…

Tháng 10 năm 1967, một bộ phận của đại đội 816 dùng mìn đánh tập kích trung đội địch chốt giữ cầu Đạ Đờn, kết quả diệt được một số tên. Đây là trận đầu ta dùng mìn để tập kích địch giành thắng lợi. Rút kinh nghiệm từ trận đánh này, trên địa bàn huyện nổi lên phong trào dùng mìn đánh địch. Tiêu biểu là trận đánh phá phòng bầu cử của địch ở ấp Lạc Sơn (Phú Sơn), ta bố trí 3 đồng chí sử dụng mìn DH10 đánh vào bộ phận bảo vệ phòng phiếu, kết quả ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đội địch.

Trong trận đánh tiêu diệt trung đội dân vệ bảo vệ đám tang của tên Báu ở đồn Fi Yàng([60]), được sự giúp đỡ của cơ sở mật, đội công tác đã phối hợp với lực lượng vũ trang của huyện tổ chức phục kích, đánh tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu phần lớn một trung đội dân vệ, thu 2 súng trung liên. Từ đó, địch ở đồn Fi Yàng không dám càn quét, lùng sục, đánh phá các buôn làng chung quanh khu vực Fi Yàng như trước.

Tháng 11 năm 1967, đơn vị 816 của huyện phối hợp với đại đội 143 và đội công tác K1 của Tỉnh đánh tiêu diệt và giải phóng ấp Phisơrôn trên đường 21bis.

Các đội công tác liên tục phát động quần chúng cung cấp thông tin phục vụ công tác diệt ác, phá kìm và nổi dậy phá ấp chiến lược ngày càng có sức lan tỏa lớn. Các buôn, ấp từ chỗ bị địch khống chế, kìm kẹp dần dần chuyển lên thế tranh chấp và tranh chấp mạnh như các buôn, ấp: Phú An (xã Phú Hội), Nghĩa Lâm, Nam Sơn (xã Tùng Nghĩa), Quảng Hiệp, Phú Thạnh, Định An (xã Hiệp Thạnh), Gia Thạnh (xã Bình Thạnh), Đạ Brết, Côi Gia (xã Đinh Văn), An Phước, Bằng Tiên, Lạc Sơn (xã Phú Sơn), Nam Ban, Pang Ting (khu vực Nam Ban)… Ngoài ra, trong các khu công nhân của nhà máy sứ Vĩnh Tường, nông trại Gia Chánh (Nghĩa Lâm) xây dựng được các cơ sở, cốt cán trong công nhân. Tại địa bàn các xã Phú Hội, Tùng Nghĩa phát triển được đảng viên, xây dựng được chi bộ dự bị tại ấp Cao Bắc Lạng (xã Tùng Nghĩa), các cơ sở, cốt cán, đảng viên phát huy được vai trò nòng cốt trong lãnh đạo phong trào quần chúng đấu tranh chống địch kìm kẹp, khống chế nhân dân, chống phá cách mạng.

Cùng với hoạt động vũ trang đánh địch và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, ta mở rộng được vùng sản xuất, khuyến khích đồng bào dân tộc đẩy mạnh tăng gia sản xuất trong các vùng căn cứ, cung cấp lương thực cho lực lượng vũ trang và các đội công tác. Đồng thời, nhân dân và cơ sở của ta đẩy mạnh tiếp tế, cung cấp lương thực, thực phẩm cho cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị làm nhiệm vụ.

 Cuối năm 1967, phong trào cách mạng trên địa bàn huyện có bước phát triển mạnh, toàn diện và vững chắc. Tiêu biểu là phong trào cách mạng tại xã Phú Sơn, hàng chục gia đình cơ sở cách mạng đã vận động, nhân dân trong xã tích cực tham gia ủng hộ lương thực, thực phẩm cho cách mạng; đội công tác vận động được 3 gia đình (15 người) là cơ sở cách mạng thoát ly, tham gia kháng chiến. Trong đó, gia đình ông Phạm Ổn (7 người), gia đình ông Trần Trung Chánh (4 người) và gia đình ông Nguyễn Văn Mạnh (4 người).

 

Qua một năm đẩy mạnh hoạt động, phong trào cách mạng trên địa bàn huyện có bước phát triển mới, vùng giải phóng được mở rộng từ xã Bình Thạnh đến xã Phú Sơn trên đường 21 bis, tiếp giáp với vùng giải phóng, bàn đạp hướng Tây Nam của thị xã Đà Lạt, trên trục đường 20 từ xã Phú Hội lên đến xã Tùng Nghĩa, ta xây dựng được cơ sở, cốt cán làm chỗ dựa vững chắc ngay trong vùng ven và trong thị trấn của địch, trên hướng Bắc trục đường 20 từ ấp Phú Thạnh lên đến các ấp Quảng Hiệp, Định An trở thành vùng tranh chấp và tranh chấp mạnh, tạo thành chỗ dựa làm bàn đạp chỉ đạo vào nội ô thị xã Đà Lạt. Đến cuối năm 1967, ta tạo được thế liên hoàn của phong trào cách mạng và hành lang thông suốt giữa huyện Đức Trọng với huyện Đơn Dương, huyện Đức Trọng với thị xã Đà Lạt, huyện Đức Trọng với các tỉnh Lâm Đồng (cũ), Đăk Lăk, đảm bảo yêu cầu phục vụ công tác chỉ đạo của Khu ủy đối với tỉnh Tuyên Đức và thị xã Đà Lạt.

Từ sự phát triển lớn mạnh của phong trào cách mạng, cơ sở, cốt cán, đảng viên và tổ chức Đảng được xây dựng, củng cố, các đơn vị vũ trang, các cơ quan và các đội công tác của huyện, được bổ sung thêm lực lượng là người tại chỗ, trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng; bộ máy kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị phá lỏng, phá rã; phong trào quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ không ngừng phát triển; thực lực cách mạng được tăng cường củng cố, đã tạo ra thế và lực để đưa phong trào cách mạng trên địa bàn huyện lên bước phát triển mới, cao hơn, toàn diện và vững chắc hơn.

 

II. CÙNG TOÀN TỈNH ĐẨY MẠNH TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN NĂM 1968, GÓP PHẦN LÀM PHÁ SẢN CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ.

 

Cuối năm 1967, cách mạng miền Nam có bước chuyển biến mạnh mẽ, phong trào quần chúng nổi dậy phá kìm, diệt ác, phá banh hàng loạt ấp chiến lược, giành quyền làm chủ, mở ra nhiều vùng giải phóng rộng lớn trên khắp chiến trường miền Nam.

Để tạo bước chuyển quyết định trên chiến trường miền Nam, đầu tháng 1 năm 1968, hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) chỉ rõ: “Xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước. Về phía ta, chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn chiến thuật; thế và lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết… ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy dành thắng lợi quyết định”.

Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 14, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị và mệnh lệnh: Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên toàn chiến trường miền Nam. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chỉ thị của Trung ương Cục, ngày 25 tháng 01 năm 1968, đồng chí Trần Lê, Bí thư Khu ủy, thay mặt Ban Thường vụ Khu ủy triệu tập các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Đức và Tỉnh ủy Lâm Đồng họp tại buôn Con Ó (A), căn cứ của Tỉnh đội Tuyên Đức để quán triệt Nghị quyết và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng tỉnh trong đợt tiến công và nổi dậy năm 1968.

Sau khi quán triệt Nghị quyết Trung ương 14 và nhận nhiệm vụ cụ thể do Khu ủy giao, tỉnh ủy Tuyên Đức họp, đánh giá tình hình cụ thể của địa phương, hội nghị nhận định: Đây là thời cơ thuận lợi cho địa phương tranh thủ đưa phong trào chính trị, vũ trang tấn công địch lên một bước mới, giành thắng lợi to lớn hơn để tạo ra bước ngoặt có tính nhảy vọt cho phong trào cách mạng của địa phương.

Theo kế hoạch chỉ đạo của Khu ủy 6 xác định: Địa bàn thị xã Đà Lạt là trọng điểm 2 của Khu 6([61]), Tỉnh ủy quyết định tập trung phần lớn lực lượng vũ trang của tỉnh, phối hợp với 2 tiểu đoàn của Quân khu 6 chi viện cho tỉnh và điều động đại đội 816 của huyện Đức Trọng tăng cường cho thị xã Đà Lạt tiến công các vị trí quan trọng của địch trong nội ô thị xã.

Đối với các huyện, Tỉnh ủy chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động tập trung giải quyết vùng nông thôn. Trong đó, tập trung đánh chiếm các chi khu, quận lỵ, các cứ điểm quân sự; hỗ trợ quần chúng diệt ác, phá kìm, phá các khu tập trung, giành quyền làm chủ…

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Đức Trọng khẩn trương củng cố địa bàn đứng chân chỉ đạo tại núi Chai và chuẩn bị địa bàn ém quân, chỗ dựa trực tiếp cho đợt tấn công và nổi dậy là ở các buôn K’Long A,B,C (xã Hiệp Thạnh), ấp Thái và Nam Sơn 3 (xã Tùng Nghĩa), buôn Đạ Prết (xã Đinh Văn), đồng thời phân công cấp ủy viên trực tiếp chỉ đạo hoạt động trên từng địa bàn cụ thể và phân công cán bộ cơ quan Huyện ủy tăng cường cho các đội công tác.

Hướng hoạt động chủ yếu là trên trục đường 20 từ cầu P’renn xuống đến ấp Phú Thạnh (xã Hiệp Thạnh), hướng thứ yếu là trên trục đường 21bis từ ngã 3 Liên Khương lên đến xã Phú Sơn.

Phối hợp với chiến trường toàn miền Nam và thị xã Đà Lạt, đêm 30 rạng sáng 31 tháng 01 năm 1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân), các đội công tác trên các hướng đồng loạt tiến công. Trong đó, các đội công tác và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ, vừa tấn công vũ trang, vừa phát động quần chúng nổi dậy như ở các ấp Định An, Quảng Hiệp, Phú Thạnh, Gia Thạnh, công nhân nhà máy chế biến nhựa thông, khu cư xá công nhân nhà máy sứ Vĩnh Tường… đã huy động được đông đảo nhân dân tham gia diệt ác, phá kìm, đặt chướng ngại vật trên các đường 20, 21bis và tham gia vận động, kêu gọi binh lính bỏ hàng ngũ, giao nộp vũ khí cho cách mạng, trở về với gia đình.

Ở xã Hiệp Thạnh, sáng ngày mùng 1 Tết, địch dùng 3 xe GMC từ chi khu Đức Trọng chở lính theo quốc lộ 20 lên chi viện cho thị xã Đà Lạt, khi đến khu vực đình Quảng Hiệp, bị lực lượng của ta phục kích, chặn đánh quyết liệt buộc chúng phải lui về phòng ngự, bỏ dở cuộc hành quân. Phối hợp với tấn công vũ trang, các đội công tác liên tục tuyên truyền tin chiến thắng cho nhân dân trong các ấp trên địa bàn xã. Những ngày tiếp theo, các đội công tác và lực lượng vũ trang của tỉnh liên tục quần, bám, phục kích đánh địch ở đồn Phi Nôm khi chúng đưa quân đi tuần tra, lùng sục, buộc chúng phải co lại. Ở Định An, do làm tốt công tác binh vận, ta đã xây dựng được cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch. Ngày 14 tháng 2 năm 1968, đội công tác của đồng chí Lê Phượng phối hợp với 1 trung đội của đại đội 816, phát loa kêu gọi và vây ép. Sau 15 phút, viên đồn trưởng Nguyễn Nhung và toàn bộ binh sĩ trong đồn Định An buông súng đầu hàng. Nhân dân và lực lượng vũ trang của ta đã phá hủy đồn Định An, thu được 32 súng (có 01 đại liên, 2 trung liên) và toàn bộ quân trang, quân dụng. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác binh - địch vận trên địa bàn xã Hiệp Thạnh. Số binh sĩ ra hàng, ta giáo dục, giải thích các chính sách của cách mạng và cho họ về với gia đình làm ăn sinh sống. Riêng thiếu úy đồn trưởng Nguyễn Nhung và 3 binh sĩ đã xin thoát ly tham gia quân giải phóng. Với khí thế đó, ta đã động viên được 15 thanh niên nam, nữ là công nhân ở nông trại trồng bông của ông Đỗ Đình Tiệm tự nguyện thoát ly tham gia kháng chiến, bổ sung vào các đội công tác và lực lượng vũ trang của ta.

Qua đợt tổng tiến công, các ấp chiến lược trên trục đường 20 từ cầu P’renn đến Phú Thạnh, trên trục đường 21bis từ cây số 3 đến xã Phú Sơn và các bộ máy kìm, ấp chiến lược ở Nam Sơn, Nghĩa Lâm (xã Tùng Nghĩa)… bị phá rã, nhân dân được tự do đi lại, nhiều nơi như ở các ấp Định An, Quảng Hiệp, Phú Thạnh, Nam Sơn, Nho Hồng… nhân dân tự nguyện đóng góp, cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cách mạng..

Ở Đà Lạt, lực lượng vũ trang của ta được sự hỗ trợ của nhân dân bên trong thị xã đã đánh chiếm được một số mục tiêu, cơ quan quan trọng của địch; sau đó, địch tăng cường lực lượng phản kích quyết liệt, lực lượng của ta phải rút ra, trụ lại tại ấp Đa Cát và chiến đấu kiên cường trong suốt 12 ngày đêm để hỗ trợ nhân dân các ấp Đa Cát, Đa Phú phá kìm, giành quyền làm chủ và thành lập chính quyền cách mạng. Trong đợt tấn công này, ta đã đánh tiêu diệt và tiêu hao phần lớn sinh lực địch, chỉ tính riêng hướng Tây Bắc tấn công vào dinh Tỉnh trưởng, căn cứ Tỉnh đoàn bảo an và Lữ quán thanh niên, ta đã tiêu diệt trên 200 tên lính Đại Hàn.

Một số cơ sở được kết nạp vào lực lương du kích, tự vệ vũ trang, qua đó thành lập được các đội du kích, tự vệ nội ô để bảo vệ trật tự trị an, truy bắt bọn ác ôn, tề điệp; nhiều thanh niên thoát ly, bổ sung vào các đơn vị bộ đội và đội công tác; có gia đình nuôi giấu, chăm sóc thương binh, sau đó dẫn đường cho anh em trở về đơn vị.

Đợt tấn công thứ 2 (từ ngày 17 tháng 02 đến ngày 01 tháng 3 năm 1968), trên tất cả các hướng ở Đà Lạt đồng loạt nổ súng tấn công địch, tiêu diệt hơn 300 tên địch. Nhưng do địch tăng cường lực lượng chống giữ và phản kích quyết liệt, nên Đảng ủy Mặt trận([62]) và tỉnh ủy Tuyên Đức chủ trương điều phần lớn lực lượng ra vùng nông thôn nhằm thu hút lực lượng của địch trong thị xã ra để đánh tiêu diệt, hỗ trợ nhân dân phá kìm, giành quyền làm chủ.

Ngày 21 tháng 2 năm 1968, ta chỉ để 1/3 lực lượng tiếp tục đánh địch trong nội ô thị xã, phần lớn lực lượng chuyển ra đánh địch trên địa bàn các xã Phú Hội, Tùng Nghĩa, các buôn, ấp trên trục đường 20, 21bis và đường 11. Trong đó xác định: hướng Đông Nam là hướng chủ yếu, mục tiêu tấn công là chi khu và chi cảnh sát Đức Trọng; hướng Nam có nhiệm vụ đánh vào xã Phú Hội, phát triển lên xã Tùng Nghĩa, hỗ trợ cho hướng Đông Nam đánh chi khu Đức Trọng.

Đêm 25 rạng sáng ngày 26 tháng 2 năm 1968, trên cả 2 hướng đồng loạt nổ súng tấn công địch.

Hướng Đông Nam do tiểu đoàn 186 đảm nhiệm, sau khi tập kết vào khu vực phía Nam xã Tùng Nghĩa ta chia thành 2 mũi: Một mũi đánh tiêu diệt đồn bảo an, chi cảnh sát xã Tùng Nghĩa, sau đó chốt giữ tại đây để hỗ trợ đội công tác tổ chức mít tinh, phát động quần chúng và mua lương thực, thực phẩm; một mũi tấn công tiêu diệt chi khu và chi cảnh sát Đức Trọng.

Ở hướng Nam, ta tổ chức tấn công tiêu diệt đồn Phú Hội, địch đã lợi dụng hệ thống hầm hào, lô cốt kiên cố chống trả quyết liệt, ta phải dùng hỏa lực mạnh để đánh mở cửa cho bộ đội tấn công vào làm chủ trận địa, làm cho địch hoảng loạn, tháo chạy.

Liên tiếp trong hai ngày 26 và 27 tháng 2 năm 1968, ta trụ lại đánh địch. Chúng đã điều động lực lượng từ trung tâm huấn luyện địa phương quân và nghĩa quân liên tỉnh (bảo an và dân vệ) phản kích. Trong trận đánh này, ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 2 đại đội bảo an, đánh thiệt hại 2 đại đội quân chi viện phản kích, diệt một số tên cảnh sát; tiêu diệt 1 đồn cảnh sát, bắt 5 tên cảnh sát và bắt 8 tên tề, điệp; diệt 1 đồn và 1 trung đội dân vệ, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, thu 2 xe ô tô vận tải của địch, giải thoát cho 24 thanh niên bị địch bắt giam. Trong đợt này, nhân dân đã bán ủng hộ cho cách mạng hơn 10 tấn bột mì.

Tuy ta chưa đạt được mục tiêu là tiêu diệt chi khu Đức Trọng nhưng đã làm cho tinh thần binh lính địch sa sút, rệu rã. Sau trận đánh, bọn địch không dám hung hăng càn quét, kìm kẹp nhân dân như trước, bọn tề, điệp không dám ngủ đêm ở nhà, phải trốn ở những nơi có lính địch canh gác, bố phòng, bảo vệ. Cũng qua đợt tấn công này, ta đã hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ, nhiều thanh niên ở các ấp Phú An, Phú Hội (xã Phú Hội), Gia Thạnh (xã Bình Thạnh), Gia Chánh (xã Tùng Nghĩa)… thoát ly tham gia vào các đơn vị lực lượng vũ trang và các đội công tác.

Sau khi lực lượng của Quân Khu 6 và Tỉnh Tuyên Đức chuyển ra đánh địch trên địa bàn huyện, các đội công tác và lực lượng vũ trang của huyện phối hợp, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, tấn công địch cả về quân sự, chính trị, binh vận. Phong trào cách mạng trên địa bàn huyện có bước phát triển mạnh mẽ, mở ra một vùng làm chủ ở nông thôn rộng lớn trên trục đường 20 và 21 bis, tạo ra vùng đệm và củng cố, mở rộng được bàn đạp, phục vụ công tác chỉ đạo phong trào trong nội ô thị xã Đà Lạt. Đánh giá kết quả trong đợt tấn công này, Tỉnh ủy Tuyên Đức khẳng định: “Một số nơi trước đây chưa có cơ sở đến nay đã có từ thấp lên cao, từ đó đưa lên xây dựng cơ sở du kích, có nơi xây dựng công khai, bán hợp pháp và bước đầu đưa lên hoạt động có tác dụng hỗ trợ phong trào du kích như Định An, Quảng Hiệp…”([63]).

Tháng 4 năm 1968, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết chỉ đạo, tiếp tục mở đợt tấn công và nổi dậy mùa hè năm 1968. Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Tuyên Đức chọn địa bàn huyện Đức Trọng làm trọng điểm, trong đó trục đường 21 bis là hướng chủ yếu.

Cuối tháng 4 năm 1968, lực lượng vũ trang của huyện và đội công tác phối hợp với 2 tiểu đoàn của quân khu chi viện khẩn trương chuẩn bị chiến trường và củng cố lực lượng để mở đợt tấn công theo kế hoạch chỉ đạo của Khu ủy 6 và Tỉnh ủy. Từ ngày 01 đến ngày 31 tháng 5 năm 1968, ta mở đợt tấn công và nổi dậy trên trục đường 21 bis từ ngã ba Liên Khương đến buôn Liên Hung.

Mở màn là trận đánh đồn bảo an Kim Phát (xã Bình Thạnh) của tiểu đoàn 186 phối hợp với đại đội 816 và đội công tác đánh tiêu diệt 1 đại đội bảo an, chiếm giữ và làm chủ tình hình tại các ấp Kim Phát, Thanh Bình. Sau đó, tiểu đoàn 186 rút ra, bố trí đại đội 816 trụ lại bên trong ấp Thanh Bình, đánh lôi kéo địch từ Liên Khương vào tiếp viện, tạo điều kiện cho tiểu đoàn 186 và tiểu đoàn 145 phục kích trên đường 21bis, từ cây  số 3 (xã Liên Hiệp) đến cây số 11 (ấp Đa Me, xã Nthol Hạ), chặn đánh bọn địch đi tiếp viện. Trận này, ta diệt gọn 4 đại đội địch([64]). Tại Đa Me (N’Thol Hạ), ta tập kích, đánh tiêu diệt một đại đội bảo an và 3 đại đội của Liên đoàn 85 biệt động quân([65]). Kết hợp với trận đánh, các đội công tác cùng với lực lượng vũ trang tiến hành phát động quần chúng, xây dựng cơ sở  tại các ấp Thanh Bình, Soan, Gia Thạnh.

Tại R’Lơm, ta tổ chức bao vây, đánh tiêu hao và đánh thu hút để tiêu diệt lực lượng của địch, buộc địch phải tăng cường lực lương giải vây, sau 3 ngày giải vây cho R’Lơm không đạt kết quả, ngày thứ 4 địch dùng máy bay ném bom hủy diệt cứ điểm R’Lơm.

Cùng với tấn công vũ trang, ta đẩy mạnh công tác binh vận và phát động quần chúng đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Nhân dân ở nhiều buôn, ấp đã phối hợp với lực lượng vũ trang nổi dậy phá ấp chiến lược, diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Ở các xã như: Phú Hội, Gia Thạnh, Đinh Văn, Phú Sơn… nhân dân tích cực tham gia các cuộc mít tinh và vận động thanh niên thoát ly gia nhập lực lượng vũ trang, các đội công tác; đồng thời, bán và ủng hộ lương thực cho cách mạng. Trong đợt tấn công này, ta đã phát triển được 3 đảng viên và thành lập thêm các chi hội và các ban cán sự các đoàn thể, phát triển thêm cơ sở cốt cán, du kích mật và các tổ tự quản của quần chúng. Nâng tổng số lên 17 ban tự quản (mỗi ban có từ 3-5 người), 15 cơ sở, cốt cán, 4 đội du kích mật, 3 tổ an ninh, 28 chi hội và Ban cán sự đoàn thể. Phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh và có chiều sâu, chất lượng được nâng lên rõ rệt; bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền bị rệu rã, sụp đổ từng mảng lớn. Tuy nhiên, hoạt động của ta trong 5 tháng đầu năm 1968 còn bộc lộ một số mặt hạn chế như: chưa đồng bộ giữa tấn công địch với xây dựng thực lực cách mạng, ngay từ đầu còn xem nhẹ công tác xây dựng, phát triển đảng viên, đoàn viên thanh niên; thiếu kế hoạch cụ thể để giữ dân nên khi địch càn quét đánh phá, gom dân, xúc dân vào các khu tập trung, các ấp chiến lược, ta phải đối phó một cách bị động, lúng túng và gặp nhiều khó khăn trong tiếp tế, cung cấp, vận chuyển lương thực, vũ khí.  

Sau 3 đợt tấn công và nổi dậy của quân và dân toàn miền Nam, buộc Mỹ - ngụy phải tìm cách đối phó. Đến giữa năm 1968, chúng đề ra sách lược “quét và giữ” nhằm bao vây, ngăn chặn lực lượng cách mạng đột nhập vào thành phố, thị xã, thị trấn và giành lại vùng nông thôn đã bị mất.

Tháng 5 năm 1968, ta vận động, xây dựng được một số cơ sở nội tuyến trong trung đội dân vệ và đại đội bảo an trong ấp, tạo điều kiện để kêu gọi, vây ép địch trong ấp chiến lược Phisơrôn và hỗ trợ nhân dân nổi dậy đấu tranh đòi trở về buôn làng cũ làm ăn. Do lo sợ ta đánh tiêu diệt để giải phóng dân trong ấp, địch sử dụng quân biệt kích của đồn Phi Có và máy bay lên thẳng yểm trợ xúc dân ở đây về khu dồn dân tại Phi Có (gần Sông Krông Nô) để quản lý, kìm kẹp nhân dân.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        

Trên địa bàn huyện Đức Trọng, địch tập trung lực lượng đánh phá, càn quét, đánh phá đến đâu chúng gom dân, xúc dân vào ấp chiến lược và ra sức củng cố bộ máy kìm kẹp đến đó; đồng thời, tiến hành nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc đánh phá cơ sở, cốt cán cách mạng của ta; đẩy mạnh bao vây kinh tế, triệt cắt tiếp tế và sử dụng máy bay ném bom, rải chất độc hóa học vào những khu sản xuất và hậu cứ của ta, gây cho ta nhiều khó khăn.

Cuối tháng 5 năm 1968, Tỉnh uỷ họp đánh giá kết quả 3 đợt tổng tấn công và nổi dậy của 5 tháng đầu năm 1968, khẳng định: Qua các đợt tấn công và nổi dậy, phong trào cách mạng trong tỉnh có bước phát triển nhảy vọt, làm thay đổi nhanh chóng cả vùng nông thôn và thị xã Đà Lạt. Ta đã mở phong trào ra nhiều vùng nông thôn rộng lớn sát thị xã, tạo ra chiến trường mới để tiếp tục tấn công địch. Qua phân tích, đánh giá tình hình, hội nghị Tỉnh ủy đề ra nhiệm vụ hoạt động phối hợp với chiến trường toàn miền Nam, mở chiến dịch tấn công quân sự Thu – Đông năm 1968. Hội nghị chỉ rõ: Làm cho địch sa sút thêm về các mặt, đối tượng tấn công là lực lượng cơ động và lực lượng kìm kẹp, các đoàn bình định, tề điệp, đồng thời phá hậu cứ và phương tiện chiến tranh của địch.

Trong đợt hoạt động Thu - Đông năm 1968, ta gặp rất nhiều khó khăn về lương thực, vũ khí nhưng các lực lượng vũ trang và các đội công tác vẫn liên tục tổ chức các trận đánh địch trên đường 20 và pháo kích vào chi khu Đức Trọng, sân bay Liên Khương, đồn Định An… đột nhập vào ấp, diệt ác, trừ gian, vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng.

Trong các đợt hoạt động của năm 1968, ta đã kết hợp khá tốt giữa tấn công và nổi dậy; ở những nơi lực lượng và bộ máy kìm kẹp của địch còn mạnh, ta tổ chức lực lượng vũ trang tấn công mạnh để hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ; ở những nơi đang ở thế tranh chấp, ta đẩy mạnh phong trào quần chúng nổi dậy kết hợp với tấn công quân sự và vũ trang tuyên truyền làm rệu rã, sụp đổ bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền; kết hợp hoạt động quân sự với đấu tranh chính trị, ta đã chú trọng làm tốt công tác binh vận, kêu gọi binh lính rời bỏ hàng ngũ của địch về với cách mạng, về với nhân dân và quan tâm xây dựng cơ sở, thực lực cách mạng tại chỗ như: phát triển đảng viên, đoàn viên, xây dựng các đội du kích bí mật, các tổ an ninh nhân dân, xây dựng các tổ chức đoàn thể và thành lập các ban tự quản của nhân dân, đồng thời động viên được nhiều thanh niên thoát ly tham gia vào lực lượng vũ trang và các đội công tác.

Qua gần 4 năm (từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1968), Đảng bộ huyện đã quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, quan điểm tư tưởng chỉ đạo và các chủ trương, nhiệm vụ của Đảng vào tình hình thực tế của địa phương để lãnh đạo cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các dân tộc trong huyện vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, anh dũng đấu tranh giành nhiều thắng lợi quan trọng, từng bước đưa phong trào cách mạng phát triển từ thấp đến cao, góp phần xứng đáng, có hiệu quả đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.

Tuy nhiên, cũng còn những hạn chế như phong trào cách mạng thiếu tính bền vững, lúc lên, lúc xuống; nhiều lúc chưa phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự và binh vận; công tác xây dựng Đảng và phát triển đảng viên, đoàn viên chưa chú trọng đúng mức, thực lực cách mạng trong các buôn, ấp còn mỏng và yếu, chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; thiếu giải pháp đồng bộ, có hiệu quả để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch càn quét, đánh phá phong trào cách mạng và vùng giải phóng, gom dân, xúc dân vào ấp chiến lược, bao vây kinh tế, triệt cắt tiếp tế, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.

Từ những thắng lợi và hạn chế rút ra từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng trong giai đoạn vừa qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện bước vào giai đoạn cách mạng mới với ý chí và nghị lực mới, quyết tâm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn và chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương IV

GIỮ VỮNG THẾ TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC,

          GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI MỘT BƯỚC QUAN TRỌNG CHIẾN LƯỢC  “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

(01/1969 - 01/1973)

 

I. TIẾP TỤC TẤN CÔNG, ĐÁNH BẠI ÂM MƯU CỦA MỸ -  NGỤY, ĐƯA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG LÊN BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta ngày càng lên cao, càng được nhân dân Mỹ và nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ; phong trào nhân dân thế giới đấu tranh đòi rút hết quân Mỹ và quân chư hầu về nước, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; các cuộc đấu tranh của thanh niên, sinh viên, học sinh và nhân dân Mỹ đòi rút hết quân Mỹ về nước ngày càng phát triển mạnh mẽ trên khắp nước Mỹ; đưa đế quốc Mỹ vào tình thế bị động, lúng túng; một mặt phải đối phó với phong trào cách mạng ở miền Nam; một mặt vừa phải đối phó với làn sóng đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới, vừa phải xoa dịu tình hình trong nước, buộc Níchxơn, tổng thống Mỹ đưa ra học thuyết “thay màu da trên xác chết” ở chiến trường, nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu của cuộc chiến tranh xâm lược. Để thực hiện mục tiêu chiến lược của học thuyết, đế quốc Mỹ đề ra kế hoạch “bình định và phát triển”, trong đó “bình định” là “cốt lõi”, là “xương sống”.

Trên cơ sở đó, Mỹ ngụy ra lệnh tổng động viên, đẩy mạnh các cuộc lùng sục bắt lính, đôn quân, bổ sung lực lượng quân đội ngụy để thay thế dần quân Mỹ và quân chư hầu trên chiến trường, đồng thời ráo riết xây dựng, củng cố hệ thống đồn bót, hầm hào dày đặc để phòng thủ, chúng xây dựng hệ thống phòng thủ liên hoàn, vành đai phòng thủ từ xa, bao quanh các thành phố, thị xã, thị trấn và các căn cứ quân sự, các cơ quan của ngụy quyền và trên các trục đường giao thông quan trọng trên khắp miền Nam; liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá vào vùng giải phóng, vùng căn cứ cách mạng để “bình định cấp tốc” trên quy mô lớn nhằm giành lại các vùng đã bị mất, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.

Trên địa bàn huyện Đức Trọng, trong những tháng cuối năm 1968, địch ráo riết đôn quân, bắt lính, đào thêm hầm hào, công sự, lập thêm các đồn bót; tăng cường thêm lực lượng, chúng điều động toàn bộ liên đoàn 85 biệt động quân([66]), trung đoàn 53 của sư đoàn 23, trung đoàn 61 công binh Mỹ đóng giữ, chốt chặn các vị trí quan trọng trên đường 20, 21 bis, các hướng xung yếu dẫn vào thị xã Đà Lạt; chốt giữ sân bay Liên Khương, các cơ quan đầu não của ngụy quyền, các chỉ huy sở, căn cứ quân sự quan trọng của địch. Tại các xã, buôn, ấp, chúng trang bị vũ khí cho nam giới tuổi từ 16 đến 45, biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội phòng vệ dân sự và bắt buộc phải ngủ tập trung, tổ chức canh gác, bố phòng mìn, lựu đạn chung quanh hàng rào ấp chiến lược; đồng thời đưa các đơn vị bảo an xuống các buôn, ấp để kìm kẹp, khống chế lực lượng phòng vệ dân sự, tăng cường lực lượng phòng thủ, chốt giữ và bảo vệ các đoàn bình định tiến hành ráo riết chiến tranh tâm lý để dụ dỗ, lừa mỵ, lôi kéo quần chúng; tách quần chúng ra khỏi cách mạng; cài cắm mật báo viên để phát hiện, đánh phá cơ sở, cốt cán của ta và củng cố bộ máy kìm kẹp của địch đã bị suy yếu, rệu rã. Ngoài ra, chúng tung lực lượng biệt kích, thám báo giả danh cán bộ, bộ đội của ta vào rừng lùng sục, tìm căn cứ, nơi đóng quân của cách mạng để chỉ điểm, dẫn đường cho các cuộc hành quân càn quét, đánh phá với quy mô lớn vào các cơ quan, đơn vị của ta trong căn cứ và gài mìn trên các đường mòn để tiêu hao lực lượng của ta trên đường đi hoạt động, công tác… Hoạt động đánh phá của địch càng về cuối năm 1968 càng quyết liệt, chúng tiến hành bình định tập trung vào các ấp trọng điểm ở xã Hiệp Thạnh, Gia Thạnh (xã Bình Thạnh), Côi Gia (xã Đinh Văn), Ngọc Sơn, Lạc Sơn (xã Phú Sơn); mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân, xúc dân ở các vùng bàn đạp của ta vào các khu dồn dân: Đam Pao, R’Lơm, B’Nôngrết, Đa Me…để xây dựng thành các khu tập trung “kiểu mẫu” và thường xuyên tăng cường kiểm tra, kiểm soát, siết chặt bao vây kinh tế, triệt cắt tiếp tế… gây cho ta rất nhiều khó khăn, tổn thất. Trước tình hình đó, cuối năm 1968, cơ quan của tỉnh phải dời xuống phía Đông Nam huyện Đơn Dương.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong năm 1969 và tinh thần Chỉ thị của Trung ương Cục về nhiệm vụ cách mạng miền Nam năm 1969 là  “… nắm vững thời cơ, kiên quyết xốc tới nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, phát động một cao trào chính trị, binh vận và du kích chiến tranh rộng rãi, đánh bại về cơ bản kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch, làm tan rã phần lớn ngụy quân, ngụy quyền, mở rộng vùng giải phóng nông thôn, làm chuyển biến tương quan lực lượng có lợi cho ta…”; tháng 11 năm 1968, Khu ủy 6 mở hội nghị quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chỉ thị của Trung ương Cục và đánh giá cụ thể tình hình của phong trào cách mạng; nhận định, đánh giá về tình hình địch trên địa bàn của Khu 6, đề ra  nhiệm vụ của năm 1969 là: “… táo bạo vươn lên, tranh thủ thời gian, lợi dụng thời cơ đẩy mạnh các hoạt động tấn công địch, nhất là tấn công trên chiến trường vùng ven thị xã, vùng yếu nông thôn, phá tan âm mưu “quét và giữ” của địch, làm cho chúng suy yếu, quyết tâm giành cho được về ta vùng ven thị xã, vùng yếu nông thôn…”.

Tháng 12 năm 1968, Tỉnh ủy họp kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng của địa phương trong năm 1968, đề ra nhiệm vụ Đông - Xuân năm 1968 – 1969 và chỉ rõ: Nhiệm vụ trọng tâm là giữ cho được số dân ở vùng mới giải phóng và số dân đã đưa lên làm chủ, đồng thời mở thêm các mảng sát các trục giao thông. Để nâng cao hiệu quả tác chiến và giữ gìn lực lượng, Tỉnh ủy chủ trương đặc công hóa lực lượng vũ trang và các đội công tác.

Thực hiện Nghị quyết của Khu uỷ và chủ trương, nhiệm vụ của Tỉnh ủy, Huyện ủy tập trung lãnh đạo lực lượng vũ trang, các đội công tác của huyện phối hợp với các đơn vị vũ trang của Quân khu và của tỉnh liên tiếp mở các đợt tấn công tiêu diệt địch và đột nhập vào ấp để vũ trang tuyên truyền.

Đêm ngày 01 tháng 01 năm 1969, tiểu đoàn 810 của tỉnh nổ súng tấn công tiêu diệt gọn đoàn bình định nông thôn ở Phú Hội; đêm 23 tháng 01 năm 1969, tấn công vào sân bay Liên Khương, diệt gọn 2 đại đội của Liên đoàn 85 biệt động quân; đánh tiêu hao và loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn 2, trung đoàn 53 (sư đoàn 23) ngụy, phá hủy đài thông tin và đài chỉ huy sân bay.

Chiều ngày 8 tháng 2 năm 1969, lợi dụng lúc dân đi làm về, đại đội 816 đã cải trang thường dân đột nhập vào ấp Nghĩa Lâm, diệt gọn đoàn bình định số 1; ngày 9 tháng 2 năm 1969, một đại đội của tiểu đoàn 810 của phối hợp với đại đội 816 tấn công, diệt gọn đồn Kim Phát và đánh thiệt hại nặng đại đội 302 (tiểu đoàn 204) ngụy đóng dã chiến tại ấp Kim Phát.

Trong tháng 3 năm 1969, đơn vị 810 của ta tấn công tiêu diệt đồn Định An và liên tiếp tổ chức các đợt tấn công tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch ở chi khu Đức Trọng và tiêu diệt yếu khu Phi Nôm (xã Hiệp Thạnh), cụm chốt ngã ba Liên Khương… Trong đợt hoạt động Đông - Xuân năm 1968 - 1969, mặc dù địch bố phòng, gài mìn dày đặc, canh gác, tuần tra, kiểm soát gắt gao nhưng các đội công tác và lực lượng vũ trang được sự giúp đỡ của cơ sở và nhân dân đã đột nhập vào ấp (kể cả những nơi trước đây ta chưa thể đột nhập được) diệt ác, phá kìm như: Cư xá bảo an (ấp An Hiệp), ngã ba Liên Khương (xã Liên Hiệp), ấp Lục Nam và trung tâm xã Tùng Nghĩa, ấp Thanh Bình (xã Bình Thạnh)….

Tháng 4 năm 1969, Tỉnh ủy họp mở rộng, kiểm điểm, đánh giá tình hình, trong đó chỉ rõ những mặt còn hạn chế, thiếu sót: “Trong hoạt động quân sự chưa có những trận đánh lớn, có trận đánh chưa gọn, chưa dứt điểm; chưa tập trung đánh vào đối tượng kìm kẹp nhân dân và diệt ác ôn còn ít, chưa giữ được dân nên số dân vùng K67, Nam Ban, Hoạch, Prijông Tô… bị địch dồn về các khu tập trung, ấp chiến lược”. Hội nghị xác định nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là: “Phải giành về ta vùng ven thị xã, vùng yếu nông thôn, mở rộng địa bàn nông thôn và chuyển phong trào thị xã lên một bước, gấp rút xây dựng lực lượng lớn mạnh về mọi mặt”.

Để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ trên, Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chú trọng làm tốt công tác chính trị, tư tưởng; các lực lượng vũ trang tập trung, củng cố lực lượng, thay đổi phương thức đánh địch; bộ đội và các đội công tác nghiên cứu, học tập, rèn luyện kỹ chiến thuật đặc công; phương pháp công tác vũ trang tuyên truyền và xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm.

Sau khi học tập, quán triệt nghị quyết của Tỉnh ủy, nghiên cứu đổi mới phương pháp công tác, rèn luyện kỹ chiến thuật, ta mở các đợt tấn công. Đêm ngày 5 tháng 6 năm 1969, tiểu đoàn 810 phối hợp với đại đội 816 do đồng chí Nguyễn Văn Sơn chỉ huy đánh vào chi khu Đức Trọng([67]), sân bay Liên Khương, trung tâm huấn luyện địa phương quân – nghĩa quân liên tỉnh, tiêu diệt gần 2 đại đội bảo an, 1 trung đội tân binh, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội pháo binh của trung đoàn 61 Mỹ, phá hủy và làm tê liệt đài thông tin, đài chỉ huy sân bay của địch và liên tiếp mở các đợt tấn công vào các đồn Quảng Hiệp, Nghĩa Lâm, Kim Phát….

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang lên cao, phong trào diệt Mỹ, đánh ngụy phát triển mạnh trên khắp chiến trường miền Nam, ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ muôn vàn kính yêu vĩnh biệt chúng ta, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Biến đau thương thành hành động cách mạng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện quyết tâm đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng, giết giặc lập công dâng lên Bác kính yêu. Trong những tháng cuối năm 1969, lực lượng vũ trang của tỉnh và quân khu mở một loạt trận đánh và pháo kích mạnh vào các đồn, các căn cứ của Mỹ, ngụy như tấn công tiêu diệt đồn Kim Phát, Đam Pao, pháo kích vào căn cứ của Trung đoàn 61 Mỹ, chi khu Đức Trọng, căn cứ Trung đoàn 53, Liên đoàn 85 biệt động quân, Trung tâm huấn luyện địa phương quân và nghĩa quân của Mỹ, ngụy, diêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Trong năm 1969, ta đã 2 lần tấn công vào chi khu Đức Trọng, 4 lần đánh vào sân bay Liên Khương, 1 lần đánh vào Trung tâm huấn luyện và trận địa pháo của Trung đoàn 61 Mỹ, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 tên, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch.

Thắng lợi trên làm phá sản một bước quan trọng kế hoạch “bình định và phát triển”, “quét và giữ” của Mỹ - ngụy, làm cho tinh thần ngụy quân, ngụy quyền suy sụp nghiêm trọng. Cùng với tấn công quân sự, ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận, nhiều gia đình ngụy quân sau khi được vận động, giáo dục đã kêu gọi con em đào ngũ, rã ngũ; có nơi địch co cụm không dám ra khỏi đồn hoặc bỏ đồn chạy trốn như ở đồn K’Long B, đồn Nghĩa Lâm,… nhiều tên trong bộ máy ngụy quyền không dám làm việc, bỏ trốn đi nơi khác làm ăn.

Đi đôi với các hoạt động vũ trang và diệt ác, phá kìm, công tác chính trị tư tưởng và công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Chỉ thị 41 của Trung ương Cục được chú trọng, đã giáo dục, giác ngộ về Đảng, về Đoàn đối với những cơ sở cốt cán ưu tú, trung kiên và làm tốt công tác phát triển đảng viên, đoàn viên lớp Hồ Chí Minh; thành lập mới 2 chi bộ: Đạ Brết và Gia Thạnh. Nhờ chỉ đạo chặt chẽ và làm tốt công tác bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách theo đúng kế hoạch và phương hướng, phương châm, nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, công tác phát triển Đảng viên mới nên chất lượng các chi bộ mới được xây dựng và số đảng viên mới được phát triển được nâng lên khá hơn trước, thực sự trở thành nòng cốt lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng trong các buôn, ấp, làm chỗ dựa tin cậy, bảo đảm cho các đội công tác và lực lượng vũ trang tổ chức xây dựng phong trào cách mạng và đánh địch có hiệu quả, đồng thời góp phần xây dựng, củng cố vững chắc địa bàn đứng chân, bảo vệ căn cứ.

 Bước vào năm 1970, quán triệt Chỉ thị 136 của Trung ương Cục, Nghị quyết của Khu uỷ Khu 6 (tháng 01 năm 1970); tỉnh uỷ Tuyên Đức ra Nghị quyết, xác định quyết tâm hoạt động trong đợt Xuân - Hè năm 1970 với tên gọi TK([68]) là: “Đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị nhằm mở rộng vùng làm chủ ở nông thôn và đưa phong trào cách mạng trong thị xã Đà Lạt lên một bước phát triển mới mạnh mẽ hơn”. Trong đó, Tỉnh ủy xác định địa bàn trọng điểm là huyện Đức Trọng và thị xã Đà Lạt.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo và quyết tâm trên, từ ngày 21 tháng 01 đến ngày 02 tháng 02 năm 1970, đại đội 816 phối hợp với tiểu đoàn 145 của Quân khu 6 liên tiếp mở các đợt tấn công vào sân bay Liên Khương, các đồn: Sêrinhắc, Kim Phát, Ngọc Sơn, cây số 3 (đường 21 bis) và phục kích đánh chặn bọn địch chi viện. Kết quả, ta đã tiêu diệt 80 tên lính bảo an, đánh thiệt hai nặng 1 đại đội lính bảo an và 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53 chi viện…

Đêm ngày 5 rạng sáng ngày 6 tháng 3 năm 1970, đại đội 816 đánh diệt gọn đại đội bảo an ở đồn Định An, sau đó phối hợp với tiểu đoàn 145 phục kích đánh diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 2 đại đội bảo an chi viện, giải cứu đồn Định An.

Giữa tháng 3 năm 1970, tiểu đoàn 145 chặn đánh gây thiệt hại nặng 4 đại đội bảo an càn quét vào khu vực Nam Ban. Cũng thời gian này, đại đội 816 chặn đánh đại đội thám kích 407 của Trung đoàn 53 (Sư đoàn 23) càn quét vào núi Voi, buộc chúng phải tháo chạy thoát thân. Đặc biệt trong năm 1970, các đội công tác của huyện đã chủ động tổ chức đánh 2 trận, tiêu diệt 5 tên địch; đội công tác phối hợp với tiểu đoàn 145 đánh 2 trận, tiêu diệt 22 tên và phối hợp với đại đội 816 đánh 5 trận, tiêu diệt 179 tên, thu 7 súng các loại.

Đợt hoạt động Xuân - Hè năm 1970, trong quý I ta đánh 24 trận, tiêu diệt hơn 1.500 tên, phá hủy hàng chục xe quân sự, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Các trận đánh này đã có chuyển biến tốt về phương thức tác chiến, hiệu suất chiến đấu cao, có nhiều cách đánh sáng tạo, táo bạo, bất ngờ, làm cho địch ngày càng hoang mang, dao động. Trong một số ấp chiến lược, ta đã bám địch suốt cả ngày lẫn đêm; có lúc ta ém quân, phục kích và đánh phản kích trong 3 ngày liền như trận đánh đồn Sêrinhắc và đồn Côi Gia; có lúc, ta tập kích tiêu diệt đồn địch giữa ban ngày làm cho địch bỏ đồn, hoảng loạn tháo chạy như trận đánh đồn cây số 3 và phục kích đánh chặn địch chi viện trên đường 21 bis.

Phát huy thắng lợi đạt được, tháng 4 năm 1970, ta thường xuyên đột ấp, bám sát cơ sở, cốt cán, điều tra nắm vững diễn biến tình hình của địch, liên tục đẩy mạnh diệt ác, phá kìm, xây dựng, củng cố cơ sở chuẩn bị cho đợt hoạt động mới.

 

Trước những thất bại nặng nề ở chiến trường Tuyên Đức - Đà Lạt, đầu tháng 5 năm 1970, ngụy quyền Sài Gòn cử một phái đoàn quân sự lên tỉnh Tuyên Đức để nghiên cứu tình hình, đề ra và triển khai kế hoạch đối phó. Trên những địa bàn quan trọng và ở các cứ điểm, địch tăng cường thêm chướng ngại vật; củng cố thêm hệ thống hàng rào, bố phòng mìn, trang bị vũ khí hỏa lực để phòng thủ, tăng cường ánh sáng để bảo vệ chung quanh và tuần tra canh gác nghiêm ngặt hơn. Ở vòng ngoài, địch tăng thêm lực lượng bảo an, dân vệ phục kích, đón lõng ở các hướng chúng cho rằng ta thường xuyên đột nhập nhưng cũng không thể xoay chuyển được tình thế và càng làm tăng thêm sự căng thẳng, hoang mang, lo sợ của bọn ngụy quân, ngụy quyền.

Tháng 5 năm 1970, chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh miền Nam và Quân khu 6, Tỉnh ủy chỉ đạo các đơn vị lực lượng vũ trang khẩn trương chuẩn bị mở đợt hoạt động mới, tiêu diệt địch trên diện rộng để phối hợp với các chiến trường trong toàn miền Nam.

Sau một thời gian chuẩn bị, đêm ngày 28 tháng 5 năm 1970, các đơn vị lực lượng vũ trang phối hợp với các đội công tác, chia thành 3 mũi đồng loạt nổ súng tấn công vào thị xã Đà Lạt trên cả 3 hướng chủ yếu và thứ yếu theo kế hoạch phân công. Trong thị xã, du kích mật dùng mìn và chất nổ đánh vào nhiều vị trí quan trọng của địch; các cơ sở cách mạng bên trong đã hướng dẫn nhân dân dựng chướng ngại vật trên đường phố, đánh phá trụ sở ngụy quyền và tiếp tế lương thực cho bộ đội… Đến tối ngày 31 tháng 5, lực lượng của ta mới rút ra khỏi thị xã.

Trong đợt tập kích này, ta đã tấn công 23 mục tiêu, tiêu diệt gần 1000 tên địch, phá huỷ 17 xe quân sự, 7 khẩu pháo 105 ly, phần lớn bộ máy kèm, tề điệp ở cơ sở bị tan rã.

Điểm nổi bật trong đợt tấn công này là lực lượng của ta ít hơn đợt tổng tấn công và nổi dậy trong Tết Mậu Thân năm 1968, nhưng do có quyết tâm cao, sử dụng chiến thuật đặc công và có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa tấn công quân sự với nổi dậy của quần chúng, giữa hoạt động của các đơn vị lực lượng vũ trang, các đội công tác đồng bộ với hoạt động của lực lượng du kích mật và cơ sở cách mạng bên trong, nên hiệu suất, hiệu quả chiến đấu cao, giành thắng lợi lớn, ta đã trụ lại đánh địch ngay trong sào huyệt của chúng trong suốt 3 ngày đêm. Đánh giá thắng lợi này, tờ báo Nhân Đạo (Pháp) đã viết: “Chiến công Đà Lạt nhắc nhở bọn ngụy quyền Sài Gòn biết tình thế của chúng núp dưới bóng quan thầy Mỹ là mong manh biết chừng nào”.

Cuộc tổng tấn công và nổi dậy, từ các hoạt động đánh địch, xây dựng phong trào cách mạng trong năm 1968 đến các hoạt động Xuân - Hè 1970, phong trào cách mạng trong toàn tỉnh có bước phát triển mạnh, giữ vững thế tấn công, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Phong trào diệt ác, phá kìm, tiêu diệt, loại khỏi vòng chiến đấu và làm rệu rã phần lớn sinh lực địch, làm phá sản âm mưu “bình định và phát triển”, “quét và giữ”, gom dân vào các khu tập trung, ấp chiến lược của địch, phong trào đấu tranh chính trị, giành quyền làm chủ của nhân dân ngày càng lên cao, thực lực cách mạng, cơ sở cốt cán được xây dựng, phát triển và có bước trưởng thành, việc kết hợp “hai chân ba mũi”([69]) ngày càng nhuần nhuyễn, có hiệu quả; tổ chức tấn công địch ngay trong sào huyệt của chúng giữa ban ngày…

Tuy nhiên, phong trào phát triển chưa đảm bảo đồng bộ giữa các vùng, các địa bàn trong huyện, thực lực cách mạng, du kích mật còn ít; phong trào đấu tranh chính trị thiếu chủ động, chưa liên tục, chỉ nổi lên khi có hoạt động quân sự mạnh; công tác binh vận còn ít và yếu, thiếu đồng bộ với đấu tranh chính trị và quân sự. Trong khi đó, qua các đợt tấn công địch, lực lượng của ta (kể cả lực lượng vũ trang và đội công tác) bị tổn thất chưa kịp thời bổ sung; vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men gặp nhiều khó khăn, không đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ, đã ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, đơn vị và ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào cách mạng trên địa bàn huyện.

 

II. HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ NHẤT([70]), ĐẨY MẠNH 3 MŨI GIÁP CÔNG, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CƠ BẢN ÂM MƯU BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH.

Giữa lúc phong trào cách mạng đang lên cao, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện cùng với cả tỉnh vừa giành được những thắng lợi to lớn trong đợt hoạt động Xuân - Hè (TK 1970). Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Đức lần thứ nhất([71]) được tổ chức trọng thể tại căn cứ của tỉnh ở buôn Kon Ó (huyện Đức Trọng). Về dự Đại hội là những đại biểu ưu tú, đại diện cho gần 1.000 đảng viên của toàn Đảng bộ tỉnh.

Trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá, phân tích tình hình của ta và địch trên địa bàn tỉnh, Đại hội ra Nghị quyết chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới là: “Tích cực đẩy mạnh tấn công vũ trang, chính trị, binh vận của tất cả các lực lượng bên trong và bên ngoài, ở cả thành phố và nông thôn nhằm diệt và làm tan rã một bộ phận lực lượng ngụy quân, làm suy yếu và giảm hiệu lực ngụy quyền bên trên, đánh sụp đại bộ phận ngụy quyền cơ sở. Nhiệm vụ trọng tâm là đánh phá bình định, phá ấp, phá kìm, giành dân, mở vùng nhằm làm thất bại về cơ bản âm mưu bình định của địch”([72]).

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ huyện Đức Trọng mở hội nghị đại biểu lần thứ nhất tại vùng núi Tà Đùng. Về dự hội nghị có 20 đại biểu là đảng viên ưu tú của các đội mũi công tác, đại đội 816 và cơ quan Huyện ủy.

Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Cục và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, hội nghị đã kiểm điểm, phân tích và đánh giá sâu sắc tình hình, đề ra Nghị quyết, xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới là: “Tiếp tục củng cố các đội mũi công tác, đẩy mạnh vũ trang đánh địch, mở cho được phong trào quần chúng bên trong”. Để thực hiện thắng lợi phương hướng, nhiệm vụ trên, Hội nghị chỉ rõ: “Trong thời gian tới, phải tích cực lựa chọn, bổ sung lực lượng cho các đơn vị bộ đội địa phương, các đội mũi công tác, xây dựng cơ sở cách mạng (trong vùng địch kiểm soát), đảm bảo bí mật, an toàn và chất lượng hoạt động. Ở hậu cứ, bằng nhiều hình thức đẩy mạnh sản xuất, vận động đồng bào quyên góp, ủng hộ và bán lương thực cho cách mạng. Chú trọng bồi dưỡng, xây dựng phát triển đảng viên, đoàn viên và xây dựng tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên”.

Hội nghị đã bầu 5 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, đồng chí Nguyễn Lâm([73]) được bầu lại làm Bí thư Huyện ủy.

Từ sau chiến dịch TK 1970, địch đối phó với các hoạt động của ta và đánh phá phong trào cách mạng bằng những âm mưu, thủ đoạn mới. Chúng tăng cường thêm 3 tiểu đoàn bộ binh và 1 chi đội xe bọc thép, mở chiến dịch “Nguyễn Trãi” càn quét đánh phá vùng Tây Bắc (huyện Đức Trọng) dọc theo phía Bắc đường 21bis và phía Tây đường 20. Để siết chặt kìm kẹp nhân dân, đánh phá cơ sở cách mạng, địch tổ chức các phân chi cảnh sát ở các ấp: Lục Nam, Phú Hội, Thanh Bình… đồng thời, tiến hành bình định có trọng điểm theo phương thức “vết dầu loang” để mở rộng dần ra chung quanh; chúng tiến hành rào làng “kiểu mẫu”, trang bị thêm vũ khí cho lực lượng phòng vệ dân sự, tăng cường tuần tra, bố phòng mìn dày đặc quanh ấp để ngăn chặn ta đột nhập. Đối với các hướng trọng điểm và các cơ quan đầu não, căn cứ quân sự, chúng bố trí 3 tuyến mìn và liên tục tổ chức phục kích để ngăn chặn từ xa; tung lực lượng biệt kích, thám báo vào rừng lùng sục, dò tìm căn cứ, hành lang của ta để gài mìn và chỉ điểm cho pháo binh, máy bay ném bom, đánh phá, triệt cắt việc vận chuyển lương thực, vũ khí và phá hoại sản xuất… Các hoạt động của địch gây cho ta không ít khó khăn, tổn thất.

Trước tình hình đó, chấp hành sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giúp cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhận thức rõ những mặt mạnh, mặt yếu của ta, phân tích sâu sắc tình hình địch, chỉ ra những yếu kém, không thể tránh khỏi thất bại của địch, đồng thời xác định quyết tâm bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình địch, bám sát quần chúng để giữ vững phong trào cách mạng và tiếp nhận tiếp tế của nhân dân, nhằm giải quyết, bảo đảm vấn đề lương thực, chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức đánh địch có hiệu quả, thắng lợi.

Trên cơ sở làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đánh giá rõ tương quan lực lượng giữa ta và địch, xây dựng quyết tâm: quyết đánh và quyết thắng, trong những tháng cuối năm 1970, lực lượng vũ trang của huyện phối hợp với các đội công tác, sử dụng chiến thuật đặc công, liên tiếp tổ chức đánh các đồn Định An, Quảng Hiệp, Côi Gia, Gia Thạnh, Phú Sơn… và chặn đánh địch càn quét vào căn cứ, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Điển hình là trận đánh chống càn vào khu vực Nam Ban, sau khi tiểu đoàn 145 của Quân khu 6 đánh tiêu diệt đồn Kim Phát, chuyển quân về đóng tại phía Nam buôn Prijông Tô (khu vực Nam Ban, nay là thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà), địch điều động 1 tiểu đoàn tăng cường đánh vào căn cứ tiểu đoàn 145. Sau khi nhận được tin báo, tiểu đoàn đã tổ chức đánh nghi binh, dụ địch lọt vào trận địa phục kích của ta, các chiến sĩ của ta đồng loạt sử dụng mìn clây-mo, lựu đạn, tấn công tiêu diệt gọn một đại đội địch và đánh thiệt hại nặng các đại đội còn lại, buộc chúng phải tháo chạy thoát thân, bỏ lại hơn 100 xác chết, từ đó ngọn đồi này đi vào lịch sử với tên gọi là đồi bỏ xác.

Quán triệt Chỉ thị 01 của Trung ương Cục, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Khu ủy 6, hội nghị Tỉnh ủy Tuyên Đức (tháng 3 năm 1971) đề ra nhiệm vụ trong tình hình mới: “Phải tập trung mọi khả năng đẩy mạnh 3 mũi giáp công và xây dựng thực lực cách mạng, nhằm đánh bại một bước quan trọng kế hoạch “bình định và phát triển” của địch. Trước mắt, đánh sụp lực lượng kìm ở cơ sở, giành quyền làm chủ ở ấp, xã, phá rã hệ thống phòng thủ của địch ở nông thôn… tạo thế và lực mới trên cả 3 vùng([74]), tiến tới cao trào tấn công và nổi dậy rộng khắp góp phần cùng toàn Khu, toàn miền làm thay đổi cục diện chiến trường([75])”.

Trên cơ sở đánh giá tình hình và thực lực cách mạng trên từng địa bàn, hội nghị quyết định điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng vũ trang trong tỉnh cho phù hợp với tình hình mới, trong đó huyện Đức Trọng được sắp xếp, bố trí 3 đại đội là: 816, 805, 809. Đồng thời, Tỉnh ủy chỉ đạo thực hiện 3 bám: bám địch, bám ấp, bám dân.

Qua nghiên cứu, xem xét tình hình mọi mặt, Hội nghị quyết định chọn huyện Đức Trọng làm trọng điểm. Để đợt hoạt động đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, Tỉnh ủy chỉ đạo các lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện tiếp tục huấn luyện chiến thuật đặc công theo từng phân đội nhỏ và huấn luyện kỹ thuật rà, gỡ mìn để lấy mìn của địch, đánh địch. Đặc biệt, lực lượng vũ trang của huyện còn tự sửa chữa được một số loại vũ khí đã bị hư hỏng để đánh địch.

Tháng 3 năm 1971, các đơn vị vũ trang, các đội công tác và du kích mật phối hợp đánh phá kế hoạch bình định của địch tại chi khu Đức Trọng, đồn Kim Phát và các khu tập trung ở các ấp chiến lược Đam Pao, R’Lơm… Đơn vị 816 bí mật thọc sâu đánh và trụ lại diệt 12 tên địch ở xã Tùng Nghĩa; đắp ụ, gài mìn, lựu đạn đánh địch trên đường 20, 21bis, các cửa ngõ, các con đường dẫn vào đồn, căn cứ, trụ sở của địch và trên các đường địch thường xuyên di chuyển, gây cho chúng thiệt hại nặng về sinh lực, hạn chế được việc đi phục kích, lùng sục. Ngoài ra, lực lượng của huyện phối hợp với lực lượng thị xã Đà Lạt phục kích đánh địch trên đường 20 tại ấp Định An. Đêm 16 tháng 6 năm 1971, đại đội 5 của tiểu đoàn 810 tập kích diệt ác ôn ở ngã ba Liên Khương.

Sau lần ta đánh vào R’Lơm, địch thường xuyên gài mìn, ngăn chặn ta vào ấp. Qua quá trình theo dõi, nghiên cứu, ta phát hiện quy luật hoạt động của chúng; Đảng ủy và Ban chỉ huy tiểu đoàn 810 họp bàn phương án tác chiến tiêu diệt địch. Rạng sáng ngày 6 tháng 9 năm 1971, ta sử dụng chiến thuật “tiền nhập, mật tập”, đúng 4 giờ 35 phút, ta nổ súng tấn công đại đội ác ôn 302, bị đánh bất ngờ, địch dẫm đạp lên nhau tháo chạy, ta diệt gần hai tiểu đội, thu vũ khí, khi ta truy kích địch thì trời vừa sáng, đồng chí Thám bị thương nhưng đồng chí Tính đã kịp thời đưa đồng chí Thám ra căn cứ. Trận đánh đã có tác động mạnh trong hàng ngũ của địch, làm cho bọn tề điệp xung quanh khiếp sợ, quần chúng phấn khởi, đảm bảo an toàn tuyến giao thông liên lạc và vận chuyển lương thực của ta.

Đêm 25 rạng ngày 26 tháng 9, tiểu đoàn 810 phối hợp với lực lượng vũ trang của huyện, chia làm 2 mũi nổ súng tấn công chi khu Đức Trọng, diệt 6 tên, thu 2 súng AR15, bắn cháy 6 xe quân sự, trong đó có 2 xe bọc thép, phá hủy 6 lô cốt và trên 30 doanh trại trong chi khu quân sự Đức Trọng của địch. Đến khi trời gần sáng, địch trong chi khu phản kích mạnh, quân ta chia thành từng tổ nhỏ rút theo đường 20. Để đảm bảo đơn vị rút lui an toàn, đồng chí Tính của đại đội 5, tiểu đoàn 810 tuy bị thương nhưng vẫn dũng cảm chiến đấu đánh chặn địch, làm cho chúng hoang mang, hoảng sợ, phải điều cả máy bay, xe bọc thép để đối phó, đồng chí đã anh dũng hy sinh([76]).

Hoạt động quân sự phát triển mạnh, tạo thuận lợi cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Các đội vũ trang tuyên truyền thường xuyên tổ chức đột ấp, phá kèm, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Nhất là các ấp dọc đường 20 và 21bis: Thanh Bình (xã Bình Thạnh), K’Long Tum (xã N’Thol Hạ), Soan, Đạ Huynh (xã Đinh Văn), Ngọc Sơn (xã Phú Sơn); Quảng Hiệp (xã Hiệp Thạnh), Liên Hiệp (xã Liên Hiệp), Nghĩa Lâm, Nam Sơn (xã Tùng Nghĩa), Phú Hội (xã Phú Hội). Quần chúng đấu tranh chống gài mìn, đòi ngụy quyền bồi thường thiệt hại do bom mìn, đạn pháo của địch gây ra. Nổi bật là cuộc đấu tranh từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 9 năm 1971, hàng trăm đồng bào ở các ấp Phú Hội, Nam Sơn, Nghĩa Lâm([77]) kéo lên quận đấu tranh đòi bồi thường thiệt hại, đòi thả chồng con bị bắt về với gia đình. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, địch buộc phải thả 12 người bị bắt. Ngày 3 tháng 10 năm 1971, nhân dân các xã: Tùng Nghĩa, Hiệp Thạnh và các ấp xung quanh phối hợp với nhân dân thị xã Đà Lạt tổ chức đấu tranh chống cuộc bầu cử độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Nhiều truyền đơn được rải trên các đường phố, thôn xóm kêu gọi nhân dân đấu tranh chống bầu cử. Ở xã Hiệp Thạnh, cơ sở của ta ban đêm bí mật tổ chức treo cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, sáng ra địch mới phát hiện nhưng không dám đến tháo gỡ, đã tác động mạnh đến tư tưởng, gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho lính ngụy, tề điệp và có tác dụng động viên tinh thần của nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng.

Phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt. Ở các ấp Soan, Đạ Huynh (xã Đinh Văn), đồng bào đấu tranh không chịu nhận vũ khí, không gia nhập lực lượng phòng vệ dân sự của địch; ở ấp K’Long Tum (xã N’Thôn hạ), đồng bào đã 2 lần mang 19 súng đến quận trả cho địch; ở các ấp Nam Sơn, Lục Nam (xã Tùng Nghĩa) trả cho địch 6 súng.

Cùng với tấn công quân sự và đấu tranh chính trị, ta đẩy mạnh công tác binh vận bằng biện pháp tập trung tuyên truyền, giáo dục, vận động những gia đình có con em đi lính cho địch, kêu gọi họ bỏ súng trở về với gia đình đạt hiệu quả, nhiều binh lính ngụy đào, bỏ ngũ trở về với gia đình làm ăn. Chỉ tính riêng trong quý 3 năm 1971, các đội công tác đã 9 lần đột vào ấp Liên Hiệp (xã Liên Hiệp), xưởng cưa Tùng Lâm, trung tâm các xã Tùng Nghĩa, Phú Hội, rải 845 truyền đơn, kêu gọi nhân dân đấu tranh chống cuộc bầu cử độc diễn và  kêu gọi binh lính bỏ súng trở về với gia đình, các đội công tác viết hàng chục lá thư cảnh cáo bọn ác ôn cảnh sát và bọn cầm đầu lực lượng phòng vệ dân sự.

Ở vùng mới giải phóng, vùng căn cứ, đồng bào hăng hái tham gia bố phòng 75.000 cây chông, đào 20 hầm và hàng trăm mét giao thông hào phục vụ chiến đấu phòng thủ, bảo vệ căn cứ, đồng thời tích cực thu gom đạn pháo chưa nổ của địch nộp cho cách mạng để sản xuất vũ khí tự tạo phục vụ đánh địch.

Công tác xây dựng cơ sở, xây dựng thực lực cách mạng được chú trọng và có những chuyển biến đáng kể. Đến tháng 12 năm 1971, ta xây dựng được 85 cơ sở trong 20 ấp trên đường 20, đưa tổng số cơ sở trong toàn huyện lên 170; số ấp có sơ sở cách mạng tăng 10 lần so với đầu năm 1971. Có 7 ấp ta xoá sạch tổ chức phòng vệ dân sự của địch như: An Phước (xã Phú Sơn), Liên Hiệp (xã Liên Hiệp), Cao Thái Sơn (xã Tùng Nghĩa), Phú An (xã Phú Hội), K’Long Tum, Nho Hồng, Koọc Lam (xã N’Thol Hạ).

Toàn huyện có 19 chi bộ, với tổng số 83 đảng viên([78]), trong đó có 6 chi bộ lực lượng vũ trang với 31 đảng viên, 8 chi bộ đội công tác với 32 đảng viên, 5 chi bộ trong các ấp với 20 đảng viên. Thành lập các tổ chức du kích, an ninh, nông hội, phụ nữ, thanh niên. Riêng ấp Nghĩa Lâm, ta đã xây dựng được một tổ du kích thiếu nhi. Các chi bộ và các tổ chức đoàn thể đều phát huy tốt vai trò nòng cốt trong phong trào cách mạng của địa phương, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng của tỉnh lên bước phát triển mới, mạnh mẽ hơn.

 

III. ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG THỰC LỰC CÁCH MẠNG, ĐÁNH BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN BÌNH ĐỊNH MỚI CỦA MỸ - NGỤY

Năm 1972, tuy bị thất bại năng nề nhưng địch vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện chương trình bình định, tăng cường thêm quân cho Liên đoàn 85 biệt động quân và sư đoàn 23 cùng với các đại đội bảo an, các trung đội dân vệ đẩy mạnh các cuộc hành quân càn quét, đánh phá các vùng bàn đạp và thọc sâu, đánh phá vùng căn cứ của ta ở 2 bên trục đường 21bis từ buôn Nho Hồng (xã N’Thol Hạ) đến Đam Pao, trên đường 20 từ ấp Nam Sơn (xã Tùng Nghĩa) đến núi Chai, ngoài ra, chúng tung biệt kích, thám báo gài mìn, phục kích ở các đường mòn để gây thương vong cho cách mạng. Nhiều cuộc càn quét có máy bay yểm trợ và thường xuyên ném bom xuống những khu vực chúng nghi là căn cứ hoặc nương rẫy sản xuất của cách mạng. Bên trong xã, ấp, chúng đưa bọn sĩ quan ngụy quân và cảnh sát xuống nắm giữ các chức vụ chủ chốt, đồng thời thành lập các cuộc cảnh sát và các yếu khu quân sự xã nhằm quân sự hóa bộ máy kìm kẹp ở xã, ấp, hỗ trợ cho việc càn quét, đánh phá cơ sở cách mạng, khống chế nhân dân; đưa bình định nông thôn xuống thôn, ấp ráo riết tiến hành chiến tranh tâm lý, đưa mật vụ xuống xây dựng tổ chức “Phượng hoàng”, giả danh các đội khai thác gỗ, “Đoàn xây dựng nông thôn”, “các đội diệt trừ sốt rét”… để lôi kéo quần chúng, dò tìm căn cứ, dò tìm cơ sở cách mạng.

Quán triệt nhiệm vụ của Khu ủy giao, tháng 12 năm 1971, Tỉnh uỷ họp kiểm điểm, phân tích tình hình và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho năm 1972 là: “Tăng cường đẩy mạnh hoạt động của lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ hai mũi: chính trị và binh vận, đẩy mạnh tiến công địch trên diện rộng, tiêu diệt và làm suy yếu, suy sụp nặng đi đến tan rã lực lượng của chúng ở cơ sở. Đưa phong trào thị xã lên một bước, tạo điều kiện dấy lên phong trào chính trị, đi đôi giữ vững, mở rộng căn cứ, hành lang…”

Tỉnh ủy chọn địa bàn huyện Đức Trọng làm điểm đánh phá âm mưu bình định của địch, giữ và đưa phần lớn dân lên thế làm chủ, giữ vững và mở rộng căn cứ, hành lang.

Nghị quyết chỉ rõ: Sử dụng lực lượng tiểu đoàn 810, đại đội 816 trong thời gian đầu tập trung đánh phá nhằm làm lỏng, rã kìm, nâng lên tranh chấp ở các ấp: Phú Hội, Nam Sơn (trên đường 20), Gia Thạnh, Côi Gia, Đạ Huynh (trên đường 21bis) và phát triển lên đánh phá kèm ở Phú Sơn để đưa xã Phú Sơn lên thế tranh chấp. Ở xã Hiệp Thạnh, phải khôi phục thế làm chủ đối với các ấp: Định An, Quảng Hiệp, K’Long (A,B,C).

Đầu năm 1972, Khu ủy 6 điều đồng chí Ma Tân (Nguyễn Thanh Bình) về làm Bí thư Huyện ủy và tăng cường thêm lực lượng vũ trang của tỉnh cho huyện Đức Trọng.

Đêm ngày 5 tháng 4 năm 1972, tiểu đoàn 810 phối hợp đại đội 816 tập kích trụ sở xã Phú Hội và đột nhập vào các ấp Nam Sơn, Gia Thạnh, Côi Gia, Đạ Huynh diệt ác ôn, phá kìm, vận động nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ và tiến hành công tác binh vận.

Ngày 10 tháng 7 năm 1972, tiểu đoàn 810 (thiếu) tấn công đồn Đam Pao, diệt 10 tên, bắt sống 8 tên phòng vệ dân sự, sau khi giải thích chính sách của Mặt trận giải phóng miền Nam, ta cho họ trở về gia đình làm ăn, trận này ta thu được 1 máy đánh chữ và 12 súng các loại.

Các ấp trên đường 20, lực lượng vũ trang phối hợp với các đội công tác tuyên truyền về đường lối, chính sách cách mạng cho nhân dân.

Tuy nhiên, trong năm 1972 tình hình trong huyện gặp nhiều khó khăn. Một phần do lực lượng ta ít, quân số thiếu hụt chưa kịp bổ sung; mặt khác, địch liên tục càn quét, đánh phá ác liệt vùng hậu cứ, nơi sản xuất của ta, chúng kìm chặt nhân dân trong các buôn ấp, ngăn chặn, triệt cắt đường tiếp tế lương thực, nhất là trong những tháng cuối năm 1972, các đơn vị vũ trang, các đội công tác chủ yếu bám và hoạt động vùng chung quanh núi Chai, núi Tà Đùng và một phần trên địa bàn xã Phú Sơn. Cũng trong thời gian này, cơ quan thị ủy, các đội công tác và lực lượng vũ trang của thị xã Đà Lạt chủ yếu bám ở vùng ven xã Hiệp Thạnh và núi Voi([79]) để chỉ đạo xây dựng phong trào xã Hiệp Thạnh và nội ô thị xã Đà Lạt; bộ phận hậu cứ phải chuyển về phía sau, vào vùng sâu để sản xuất, tự túc lương thực.

Công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên bị chững lại, nhất là trong vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát nhưng với quyết tâm cao, ta thường xuyên tăng cường đột ấp để lãnh đạo và duy trì hoạt động của các chi bộ, đảng viên và số cơ sở mật trong ấp. Đến cuối năm 1972, toàn huyện có 131 cơ sở. Riêng xã Hiệp Thạnh đã có 5 chi bộ bí mật và một số đảng viên, đoàn viên hoạt động đơn tuyến.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam ngày càng được nhân dân tiến bộ Mỹ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ, phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, đòi rút hết quân Mỹ và quân chư hầu về nước ngày càng lên cao, thêm vào đó tình hình kinh tế Mỹ đang lâm vào khủng hoảng, xã hội rối ren; cuộc chiến tranh ở Việt Nam ngày càng bị sa lầy, không lối thoát, nguy cơ phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ngày càng tăng, đẩy Chính phủ Mỹ lâm vào tình thế lúng túng, bị động đối phó. Trong bối cảnh đó, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định Paris do ta đưa ra ngày 8 tháng 10 năm 1972.

Với bản chất phản động và hiếu chiến, đế quốc Mỹ đã gấp rút và ồ ạt đưa các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam trang bị cho ngụy quân. Ngụy quyền Sài Gòn, để chuẩn bị cho việc đánh phá sau khi Hiệp định được ký kết. Đồng thời, mở trận tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B52 ra miền Bắc, tập trung đánh phá vào các cơ sở kinh tế, đê điều, trường học và bệnh viện ở thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và nhiều nơi khác ở miền Bắc, quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu trong 12 ngày đêm, đánh bại uy danh không lực Hoa Kỳ, làm nên chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”.

Sau khi bị thất bại thảm hại trong trận tập kích chiến lược bằng không quân, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris, ngày 27 tháng 01 năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Trên địa bàn huyện Đức Trọng, trước khi Hiệp định Paris được ký kết, địch tập trung củng cố hệ thống đồn bót ở Kim Phát, Phi Nôm và xây dựng thêm một số đồn bót ở những hướng quan trọng, xung yếu, đồng thời tiến hành san ủi, mở thêm các tuyến đường mới lấn sâu vào rừng, vào vùng căn cứ, vùng làm chủ của ta. Chúng tiến hành dồn dân ở những nơi tiếp giáp với vùng căn cứ, vùng giải phóng của ta vào các khu tập trung ở Côi Gia, Phú Sơn, Bình Thạnh, Quảng Hiệp… đặt trong sự quản lý của bộ máy kìm kẹp đã được tăng cường, nhằm tạo ra vành đai cách ly giữa nhân dân với cách mạng, đẩy nhân dân ra khỏi vùng giải phóng và lập thêm các cuộc cảnh sát xã, đưa lực lượng cảnh sát xuống các xóm, ấp trực tiếp làm liên gia trưởng và cài cắm bọn điệp báo, chỉ điểm vào trong dân, tiến hành phân loại nhân dân, truy tìm, bóc tách cơ sở để đánh phá cách mạng.

Trước tình hình trên, tháng 01 năm 1973, Trung ương Cục ra Chỉ thị số 01/CT-73 về “kế hoạch thời cơ”, quán triệt tinh thần Chỉ thị, Tỉnh ủy Tuyên Đức đề ra kế hoạch cụ thể, mở đợt hoạt động mới. Các lực lượng vũ trang, các đội công tác của tỉnh, của huyện đồng loạt phối hợp nổ súng đánh chiếm nhiều vị trí của địch trên đường 20, 21 bis. Đặc biệt, trong trận đánh chốt giã chiến của 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 53 (sư đoàn 23) ngụy có máy bay và xe bọc thép hỗ trợ, lực lượng của ta chỉ với 10 đồng chí đã kiên cường bám trụ đánh địch, sau 2 ngày đêm, ta tiêu diệt 60 tên địch, đánh bị thương nhiều tên khác và rút ra an toàn. Trận đánh đã có tác động mạnh đối với lực lượng ngụy quân, bộ máy ngụy quyền và bọn tề, điệp của địch. Trong đêm 27, rạng sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, cờ giải phóng được cơ sở binh vận cắm lên ngọn cây gòn, ngay trên hàng rào chi khu quận Đức Trọng, làm cho địch rất hoang mang, lo sợ và động viên được tinh thần phấn khởi của nhân dân. Tuy nhiên, do lực lượng của ta ít, phải dàn mỏng để đảm nhiệm nhiều mục tiêu, quân số và vũ khí bị tiêu hao trong các đợt hoạt động đánh địch từ cuối năm 1971 đến cuối năm 1972 chưa kịp bổ sung nên không đủ sức giữ vững được những nơi đã đánh chiếm, phải rút ra bám trụ ở khu vực Nam Ban, Prijông Tô, Tây núi Chai, thác Pongour... Do đó, không tạo được thế và lực để đấu tranh chống địch lấn chiếm, giành dân sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Tuyên Đức, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng đã anh dũng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh, đưa phong trào cách mạng ở địa phương không ngừng phát triển, góp phần cùng toàn tỉnh và toàn miền Nam đánh bại các kế hoạch bình định của Mỹ - ngụy.

Đầu năm 1973, đồng chí Ngô Đức Đề được điều về thay đồng chí Nguyễn Thanh Bình làm Bí thư Huyện ủy; phân công đồng chí Nguyễn Đăng Triêm phụ trách quân sự và thành lập đội công tác tiền phương và 5 đội công tác: Đội công tác thứ nhất do đồng chí Lê Thúc Huy phụ trách cùng với 4 chiến sĩ lực lượng vũ trang, làm nhiệm vụ bám địa bàn các xã Tùng Nghĩa, Phú Hội để xây dựng lực lượng và chống địch lấn chiếm địa bàn núi Chai; đội thứ hai bám các ấp Đạ Brết, ĐaMe, Nho Hồng; đội thứ ba với 5 đồng chí cán bộ dân tộc bám khu vực Nam Ban, Hoạch; đội thứ tư bám các buôn, ấp Côi Gia, Soan, Đa Huynh, Gia Thạnh; đội thứ năm bám xã Phú Sơn để móc nối lại cơ sở, củng cố phong trào. Trong căn cứ có 3 bộ phận với khoảng 20 đồng chí, gồm bộ phận văn phòng và giao liên do đồng chí Bùi Minh Hớn phụ trách; bộ phận căn cứ phụ trách sản xuất và bộ phận trại giam của huyện. Mỗi bộ phận đứng chân trên địa bàn có trách nhiệm tự phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, xây dựng kế hoạch công tác theo nhiệm vụ được giao và thông qua đội công tác tiền phương do đồng chí Ngô Đức Đề phụ trách để xin chủ trương chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy.

Trải qua 4 năm (từ tháng 01 năm 1969 đến cuối tháng 01 năm 1973), Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân trong tỉnh, liên tục mở các đợt tấn công như: Chiến dịch tập kích chiến lược (TK1970), “kế hoạch thời cơ” đã góp phần đánh bại một bước quan trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chấp nhận ký kết Hiệp định Paris, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu về nước, mở ra thời cơ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn này, phong trào cách mạng trên địa bàn huyện phát triển chậm, thực lực cách mạng, nhất là tổ chức Đảng và đảng viên trong nhân dân còn ít, chưa đủ khả năng để lãnh đạo phong trào quần chúng nổi dậy phá kìm, giành quyền làm chủ và do chưa lường hết những âm mưu, thủ đoạn của địch nên chưa có những chủ trương, giải pháp kịp thời để củng cố, giữ vững phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong các ấp chiến lược, phong trào cách mạng trong quần chúng thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các vùng, các xã, ấp nên địch dễ đối phó, gây cho ta nhiều khó khăn. Tình hình đó đã ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng của địa phương, nhất là trong giai đoạn đầu sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực, phong trào cách mạng của địa phương bị giảm sút, vùng giải phóng bị co hẹp.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương V

ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH LẤN CHIẾM, CHUẨN BỊ

LỰC LƯỢNG GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG

(tháng 2/1973 đến tháng 4/1975)

 

I. ĐẤU TRANH CHỐNG LẤN CHIẾM, GIỮ VỮNG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG.

Tuy bị thất bại nặng nề, buộc phải ký Hiệp định Paris nhưng với bản chất hiếu chiến và xâm lược, đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thống trị miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, đồng thời tăng cường đổ thêm đôla, vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, để xây dựng lực lượng ngụy quân thành đội quân mạnh nhất ở Đông Nam Á, nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kế hoạch bình định, lấn chiếm, hình thành các phòng tuyến vành đai, phân vùng chia cắt để tiêu diệt lực lượng cách mạng.

Tại Tuyên Đức, địch tăng cường lực lượng, đóng thêm quân một số đồn ở Đức Trọng và phía Tây Bắc Đà Lạt, củng cố hệ thống đồn bót đã có, xây dựng thêm một số đồn bót để có khả năng khống chế trên nhiều vùng rộng lớn như: đồn Kim Phát, yếu khu Phi Nôm, căn cứ 20 (dưới chân núi Voi)… đồng thời, sử dụng máy ủi, có lực lượng quân sự hỗ trợ mở thêm nhiều đường mới, ủi đường đến đâu, chúng đưa đồng bào phát quang tới đó, lấn chiếm sâu vào vùng giải phóng, căn cứ và địa bàn bàn đạp của cách mạng ở khu vực Đam Pao, Đa Me, núi Chai, Pongour… Ở các khu vực Nam Ban, khu vực từ phía tây núi Chai đến Lán Tranh, từ Bằng Tiên đến Prijông Tô, địch cho máy bay ném bom và pháo binh bắn dọn đường, sử dụng 3 tiểu đoàn bộ binh có máy bay lên thẳng yểm trợ, liên tục càn quét 2, 3 tháng liền để đẩy lực lượng của ta ra khỏi căn cứ, lấn chiếm, mở rộng địa bàn kiểm soát của chúng. Trong vùng địch tạm chiếm, chúng tăng cường đôn quân, bắt lính, buộc nhân dân không kể nam hay nữ, tuổi từ 16 đến 50 phải vào phòng vệ dân sự, tiến hành đào công sự, hào giao thông phòng thủ quanh ấp.

Những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của địch đã gây cho ta nhiều khó khăn, nhưng lúc đầu do chủ trương của Khu uỷ: đấu tranh giữ gìn hòa bình, hạn chế đột ấp, tấn công vũ trang nên lực lượng vũ trang và các đội công tác chưa tổ chức đột ấp, phá kìm, tấn công vào các sở chỉ huy của địch, chủ yếu đối phó, đánh trả khi địch lấn chiếm ra vùng giải phóng, vùng căn cứ của ta. Do đó, địa bàn của ta bị thu hẹp dần, nhất là địa bàn núi Chai bị địch lấn chiếm, lực lượng vũ trang, các đội công tác của ta bị tổn thất.

Trước tình hình đó, tháng 4 năm 1973, Tỉnh ủy họp ra Nghị quyết chi rõ nhiệm vụ, phương châm, phương thức hoạt động trong tình hình mới: “Đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận, kiên quyết đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng, căn cứ, lực lượng vũ trang phải cùng với lực lượng chính trị của quần chúng ra sức đấu tranh giữ vững thế trận hiện có, sẵn sàng đánh bại cuộc hành quân càn quét của địch, kiên quyết giữ vững vùng căn cứ và vùng bàn đạp”.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang và các đội công tác tích cực bám đất, bám dân, chặn đánh các cuộc hành quân lấn chiếm, củng cố, giữ vững được bàn đạp, mở rộng địa bàn đứng chân, tạo thế đột ấp, phá kìm, phát động quần chúng đấu tranh giành quyền làm chủ trong giai đoạn tới.

Cuối tháng 5 năm 1973, Khu ủy khu 6 họp kiểm điểm tình hình, đề ra Nghị quyết chỉ đạo phương hướng, nhiệm vụ cho thời gian tới. Quán triệt Nghị quyết của Khu ủy, tháng 6 năm 1973, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp kiểm điểm tình hình và đề ra Nghị quyết về tình hình nhiệm vụ mới. Nghị quyết chỉ rõ: “Phải chuyển mạnh phương châm, phương thức hoạt động trong tình hình mới, quyết tâm bám trụ, đẩy mạnh tiến công, ra sức giữ vững và mở rộng vùng tranh chấp, tích cực mở rộng phong trào vào vùng sâu, vùng yếu, xóa vùng trắng, kết hợp với diệt ác, phá kìm, giành dân; phát động quần chúng đẩy mạnh đấu tranh giành quyền làm chủ, xây dựng được các lõm giải phóng. Ra sức xây dựng lực lượng bên trong và bên ngoài vững mạnh, đào tạo nhiều cơ sở, cốt cán bên trong. Đẩy mạnh sản xuất, bố phòng, chống địch tập kích vào căn cứ”.

 

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã vận dụng sáng tạo phương châm, phương thức công tác chỉ đạo, vừa đẩy mạnh tấn công quân sự, vừa tích cực vận động quần chúng đấu tranh chính trị, kết hợp với công tác binh vận đạt nhiều kết quả quan trọng. Trong 6 tháng cuối năm 1973, lực lượng vũ trang của huyện đánh địch 9 trận, tiêu diệt 28 tên, phá hỏng 1 xe công chính của địch; các đội công tác đã đột ấp 74 lần, tổ chức gặp dân trong và ngoài ấp 765 lượt người, rải 2016 truyền đơn, cắm 400 biển báo vùng kiểm soát của cách mạng, đốn hạ cây và nhiều lần đắp ụ, gài mìn đánh phá giao thông trên đường 20, 21bis… Đến cuối quý 3 năm 1973, ta móc nối liên lạc và chỉ đạo cơ sở cách mạng ở các buôn Côi Gia, Soan, Đạ Huynh, R’Lơm, Đam Pao… hoạt động trở lại có hiệu quả.

Công tác binh vận trong thời gian này có bước chuyển biến khá, qua nhiều lần tiếp xúc, giáo dục, vận động đồng bào lôi kéo được nhiều lính dân vệ, phòng vệ dân sự và cán bộ xã, ấp của địch rời bỏ hàng ngũ, cùng với nhân dân trở về buôn làng cũ làm ăn, qua đó ta xây dựng được 15 nhóm tương trợ sản xuất và đời sống với hơn 200 người. Công tác đấu tranh chính trị của quần chúng được đẩy mạnh, nhất là đấu tranh chống tăng thuế, chống cày ủi ruộng đất, càn quét, phá hoại nương rẫy của đồng bào, đòi trở về buôn làng cũ làm ăn, chống đôn quân, bắt lính. Được cơ sở cách mạng hướng dẫn, quần chúng ở các buôn R’Lơm, Đam Pao đã kiên quyết đấu tranh chống địch càn quét, địch phải bị động, lúng túng đối phó, chúng đã xả súng bắn vào dân làm 30 người chết và bị thương, nhân dân đã kéo lên quận đấu tranh đòi địch phải cứu chữa cho dân, đòi được sống phân tán ngoài nương rẫy. Với việc đấu tranh mãnh mẽ với lý lẽ cứng rắn, buộc địch phải chấp nhận yêu sách của quần chúng. Ở các ấp Gia Thạnh, Côi Gia, Định An, Quảng Hiệp liên tiếp nổ ra các cuộc đấu tranh của quần chúng chống đôn quân, bắt lính, chống địch càn quét, đánh phá, đòi thả chồng, con, em về với gia đình, không đi lính cho địch.

Trong vùng căn cứ, ta đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất để đảm bảo lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhiệm vụ đấu tranh đánh địch có kết quả, sản xuất được hàng chục ha bắp (ngô), khoai lang và đậu các loại.

Tháng 7 năm 1973, hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng  chỉ rõ: “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn cách mạng mới là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Về phương châm chiến lược của cách mạng, hội nghị chỉ rõ: “Dù phát triển theo khả năng nào, con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tấn công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”.

Quán triệt Nghị quyết Trung ương 21, tháng 12 năm 1973, Tỉnh ủy họp kiểm điểm, đánh giá tình hình và đề ra Nghị quyết về những nhiệm vụ chủ yếu của năm 1974 là: “Ra sức đánh phá âm mưu của địch bình định lấn chiếm, ủi phá mở đường vào vùng giải phóng của ta, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực cách mạng trên các vùng. Xây dựng các bàn đạp, bảo đảm thế đứng vững chắc cho lực lượng vũ trang và các đội công tác ven thị xã, các trục giao thông, xây dựng lõm chính trị bên trong và các ấp vùng ven thị xã nhằm tạo thế bám cho Tỉnh ủy… Trước mắt, tập trung khôi phục lại thế tranh chấp, làm lỏng, rã bộ máy kìm kẹp ở các ấp trên đường 11, 20, 21bis, chủ yếu là các xã Xuân Trường, Xuân Thọ và Hiệp Thạnh”.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 1974, ta gặp rất nhiều khó khăn, quân số của các đơn vị vũ trang của tỉnh và của huyện bị giảm nhiều; tiểu đoàn 810 của tỉnh chỉ còn 1 đại đội với 75 cán bộ, chiến sĩ; đại đội đặc công 54B chỉ còn 37 đồng chí, các đơn vị vũ trang của huyện mỗi đại đội chỉ còn 12 đến 15 đồng chí.

Trong khi đó, trên địa bàn huyện Đức Trọng, địch tập trung lực lượng đẩy mạnh càn quét, đánh phá quyết liệt khu vực Núi Chai, vùng thác Pongour, chúng tiến hành cày ủi, chia thành từng lô để đưa dân xã Tùng Nghĩa đến cư trú, làm vành đai bảo vệ quận lỵ, sân bay Liên Khương và xã Tùng Nghĩa. Địch tiếp tục mở đường 21bis vào Prijông Tô, Đạ Huynh, PrơTeng để đưa dân lập các khu tập trung, chốt chặn hành lang của ta từ căn cứ ra bàn đạp thị xã.

Nhưng với quyết tâm đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng, bảo vệ vùng căn cứ, bảo vệ bàn đạp, giữ vững và đưa phong trào cách mạng phát triển. Được tỉnh chi viện, lực lượng vũ trang của huyện phối hợp, tổ chức đánh một số trận gây ảnh hưởng tốt tới phong trào cách mạng của địa phương

Đêm ngày 12 tháng 9 năm 1974, ta dùng mìn, bộc phá đánh vào sân bay Liên Khương, diệt 7 sĩ quan ngụy, đánh sập 2 căn nhà, phá hỏng nhiều thiết bị kỹ thuật trong sân bay.

Tháng 11 năm 1974, với 40 cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn 810 đã anh dũng chiến đấu suốt 3 ngày đêm, chống cuộc hành quân càn quét vào Nam Ban của 3 tiểu đoàn địch, kết quả ta diệt 60 tên.

Tuy còn nhiều khó khăn nhưng công tác binh vận và đấu tranh chính trị của quần chúng vẫn duy trì có hiệu quả, nhất là vùng đồng bào dân tộc đấu tranh đòi về làng cũ làm ăn, chống đi lính, buộc địch phải nhượng bộ.

Từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết đến tháng 11 năm 1974, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh, kiên cường bám trụ, đánh trả quyết liệt âm mưu, hành động bình định của địch, phá hoại Hiệp định, càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng, từng bước khôi phục và giữ vững vùng căn cứ, xây dựng được các bàn đạp, tạo thế đứng chân để đột ấp, phá kìm, chỉ đạo phong trào cách mạng trong vùng địch tạm chiếm; phong trào cách mạng có bước chuyển biến tích cực, tạo ra thế và lực để bước vào giai đoạn cách mạng mới, chuẩn bị lực lượng, giải phóng quê hương.

Tuy nhiên, do chưa quán triệt sâu sắc quan điểm về bạo lực cách mạng, tư tưởng cách mạng không ngừng; cách mạng phải không ngừng tấn công, phải thường xuyên, liên tục tấn công nên trong thời gian đầu sau khi Hiệp định được ký kết, vì sợ vi phạm Hiệp định, thiếu chủ động tấn công địch, lui về phòng thủ, chỉ đánh trả khi địch càn quét, lấn chiếm vào vùng căn cứ, làm cho vùng giải phóng, vùng căn cứ bị thu hẹp, mất địa bàn đứng chân. Trong tình hình đó, nội bộ xuất hiện tư tưởng bi quan, dao động đã ảnh hưởng lớn đến việc chuẩn bị lực lượng, đón thời cơ, giải phóng quê hương.

 

II. CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG, GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG

Cuối năm 1974, địch càng suy yếu, nhiều quận lỵ, căn cứ quân sự trên các vị trí chiến lược quan trọng, án ngữ ngăn chặn của địch ở miền Nam được giải phóng nhưng chúng không có khả năng phản kích. Tình hình đó, mở ra thời cơ để kết thúc công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

 Ngày 30 tháng 9 đến ngày 8 tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định phương án: Giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Trong đó, Bộ chính trị dự kiến phương án thứ hai: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Ở tỉnh Tuyên Đức nói chung, huyện Đức Trọng nói riêng tình hình còn rất nhiều khó khăn. Các cơ quan, đơn vị trong tỉnh chỉ có khoảng 300 cán bộ, chiến sĩ, cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm còn ít, phong trào quần chúng yếu. Lực lượng của địch được tăng cường lên khoảng 15.000 tên, ngoài ra còn có gần 2000 tên, gồm học viên sĩ quan trường võ bị Đà Lạt, chiến tranh chính trị, cảnh sát dã chiến, trung tâm huấn luyện bảo an - dân vệ liên tỉnh, các đơn vị pháo binh, thiết giáp và máy bay… Nhưng với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và nhận định tình hình của địa phương, Tỉnh uỷ xác định chủ trương: “… phải tập trung sức đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, ra sức khôi phục các bàn đạp đã mất, mở rộng các lõm chính trị bên trong, nhằm tạo cho được thế đứng chân cả bên ngoài, lẫn bên trong một cách vững chắc. Tích cực khôi phục lại vùng làm chủ, vùng tranh chấp cũ và mở rộng thêm vùng làm chủ, vùng tranh chấp mới, để tạo thành mảng tranh chấp nối liền nhau trên một diện rộng. Tạo điều kiện thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho ta, khi thời cơ đến tiến lên giành thắng lợi quyết định”.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang phối hợp với các đội công tác đẩy mạnh hoạt động tấn công bọn bảo an, dân vệ và bọn đi càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng, giữ vững được các bàn đạp và địa bàn trọng điểm. Ta liên tục tấn công tiêu diệt địch từ cấp tiểu đội, trung đội lên đại đội ở các đồn Nam Ban, Đa Me, Hoạch, R’Lơm; các đội công tác phối hợp với du kích bí mật đánh vào trụ sở ấp Bắc Hội, tiêu diệt bọn địch đóng chốt dã ngoại ở ấp Bồng Lai và đột ấp vũ trang tuyên truyền ở các ấp Gia Thạnh, Nam Sơn, Phú Hội, Phú Thạnh, Quảng Hiệp, Định An… Ta giành lại được các địa bàn tranh chấp trước đây đã bị mất như Định An, Bắc Hội. Từ những thắng lợi trên, tạo điều kiện thuận lợi cho huyện bước vào giai đoạn cách mạng mới, cùng toàn tỉnh tấn công và nổi dậy, giải phóng quê hương.

 

Trên chiến trường miền Nam, từ ngày 4 tháng 3 năm 1973 đến ngày 24 tháng 3 năm 1975 chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, mở đầu cuộc tổng tấn công và nổi dậy giải phóng miền Nam. Thừa thắng, quân và dân ta mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng giải phóng tỉnh Thừa Thiên - Huế và các tỉnh đồng bằng Khu 5. Giữa lúc đó, ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp, quyết định giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Sau khi chiến dịch Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi (ngày 28, 29 tháng 3), ngày 30 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp hạ quyết tâm: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, đẩy mạnh tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam trong tháng 4 năm 1975” và quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử để đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước.

Thời cơ ngàn năm có một, chấp hành sự chỉ đạo của Khu ủy khu 6, Tỉnh ủy xác định: “Chủ động tấn công địch để phối hợp với các chiến trường; đồng thời, khi có lực lượng của trên về hoạt động tại địa phương, phải sẵn sàng phối hợp tấn công và nổi dậy, giành chính quyền về tay nhân dân”.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ nêu trên, tỉnh ủy được Khu ủy giao nhiệm vụ và kế hoạch phối hợp hoạt động:

- Một là: Phối hợp với chiến trường Lâm Đồng (cũ), phải tập trung lực lượng giải phóng đoạn đường 21bis từ Đa Me đến Phú Sơn, tạo thế bàn đạp cho quân chủ lực giải phóng Đà Lạt và toàn bộ tỉnh Tuyên Đức.

- Hai là: tỉnh Tuyên Đức cử một bộ phận đến bến phà Phi Kó bắt liên lạc với bộ phận chuẩn bị chiến trường của Sư đoàn 10, đưa bộ phận này về chuẩn bị mở chiến dịch giải phóng thị xã Đà Lạt.

Thực hiện nhiệm vụ trên, Tỉnh ủy phân công đồng chí Chế Đặng và đồng chí Hoàng Văn (Trịnh Khiết) về bàn đạp tiền phương của tỉnh ở huyện Đức Trọng để thực hiện kế hoạch giải phóng đường 21bis và giải phóng toàn huyện khi có thời cơ, tạo thế để tiến lên giải phóng thị xã Đà Lạt khi có lực lượng của trên về phối hợp.

Ở Lâm Đồng (cũ), chiều ngày 27 tháng 3 năm 1975, một bộ phận của Sư đoàn 7 đánh chiếm chi khu Bà Sa (nay là huyện Đạ Hoai). Sáng ngày 28 tháng 3 năm 1975, giải phóng thị xã B’Lao (nay là thị xã Bảo Lộc). Chớp thời cơ, đại đội 5 trinh sát của Quân khu 6 đánh chiếm quận lỵ Di Linh, địch tháo chạy lên hướng huyện Đức Trọng. Sáng ngày 29 tháng 3, địch thấy lực lượng của ta ở Di Linh quá ít, chúng tập hợp tàn quân được 1 tiểu đoàn và xin tiểu khu Tuyên Đức chi viện thêm tiểu đoàn 204 và xe bọc thép, pháo binh hỗ trợ, phản kích lại quận lỵ Di Linh nhưng đại đội 5 trinh sát của Quân khu 6 đã kiên cường chiến đấu, giữ vững các vị trí đã chiếm. Chiều ngày 30 tháng 3, sau khi tiểu đoàn 840 của Quân khu 6 bắt được liên lạc với đại đội 5 trinh sát, đánh phản công, địch hoảng loạn tháo chạy về hướng Đức Trọng, trên đường tháo chạy bị quân ta chặn đánh tại ấp Đồng Lạc, bắn cháy nhiều xe quân sự, xe bọc thép, thu được 2 khẩu pháo 105 ly, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, một số chạy thoát thân theo đường 20 lên Đức Trọng, một số khác chạy trốn vào rừng. Sau khi huyện Di Linh được giải phóng (sáng ngày 31 tháng 3), địch ở tỉnh Tuyên Đức và huyện Đức Trọng rút chạy; trong khi rút chạy, chúng phá hủy cầu Đại Ninh (chiều ngày 31 tháng 3) và cầu Phi Nôm (tối 31 tháng 3) để ngăn chặn quân ta truy kích.

Khi địch hoảng loạn tháo chạy, số đảng viên, cơ sở, cốt cán bên trong đã tổ chức cho quần chúng bảo vệ trật tự trị an và chuẩn bị sẵn sàng phương tiện để đón bộ đội vào giải phóng. Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, khi lực lượng của tiểu đoàn 186, 840 của Quân khu 6 đến cầu Đại Ninh, nhân dân dùng hàng chục chiếc ghe (thuyền) để chở bộ đội vượt sông Đa Nhim vào giải phóng hai xã: Phú Hội, Tùng Nghĩa. Ngay trong đêm ngày 2 tháng 4 năm 1975, toàn bộ quân địch ở huyện Đức Trọng tan rã, Ủy ban quân quản huyện Đức Trọng được thành lập do đồng chí Nguyễn Xuân Khanh làm Chủ tịch.

Ngay sau khi giải phóng, một mặt ta gấp rút thành lập chính quyền quân quản, tiến hành kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện, giao nộp vũ khí, mặt khác triển khai tốt công tác bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ chính quyền cách mạng, đồng thời vận động và tổ chức cho nhân dân nhanh chóng ổn định đời sống về mọi mặt, đẩy mạnh sản xuất.

Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với biết bao gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng vẻ vang, oanh liệt, Đảng bộ, quân và dân trong huyện, được sự chi viện lực lượng của Quân khu 6 đã tổ chức lực lượng phối hợp giải phóng huyện Đức Trọng vào ngày 02 tháng 4 năm 1975, mở toang cửa ngõ tiến về giải phóng thị xã Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức, góp phần mở thông các tuyến đường tiến công vào hướng Đông-Bắc thành phố Sài Gòn, trận quyết chiến cuối cùng, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong mùa Xuân đại thắng năm 1975.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

Trải qua gần nửa thế kỷ đấu tranh bền bỉ, kiên cường, vượt qua biết bao gian khổ, hy sinh, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đức Trọng cùng với các địa phương trong tỉnh đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chống thực dân, đế quốc xâm lược, giải phóng tỉnh - thị xã: Tuyên Đức - Đà Lạt (nay là tỉnh Lâm Đồng), giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Là một vùng đất mới được khai thác, dân cư thưa thớt, điều kiện địa hình tự nhiên bị chia cắt, cách trở về thông tin, liên lạc, giao lưu kinh tế, văn hóa và phong trào đấu tranh cách mạng trong nước nên phong trào cách mạng giai đoạn 1930 - 1945 tác động đến địa phương có nhiều hạn chế. Nhưng trước những áp bức, bóc lột nặng nề của chủ nghĩa thực dân, tư bản Pháp; với truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc trong huyện không cam chịu tủi nhục, lầm than đã nhiều lần vùng lên chống áp bức, cường quyền. Trong những ngày cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, nhân dân các dân tộc trong huyện vùng lên kết thành một khối đoàn kết để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược, giành chính quyền về tay nhân dân.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), nhất là từ khi có chi bộ Đảng Cộng sản ra đời và lãnh đạo, nhân dân các dân tộc trong huyện một lòng kiên trung với Đảng, tự nguyện đi theo Đảng làm cách mạng, giải phóng quê hương, đất nước. Trải qua các giai đoạn cách mạng đầy cam go, thử thách quyết liệt, Đảng bộ huyện Đức Trọng từng bước trưởng thành về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện góp phần đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Mặc dù lực lượng của địch đông hơn ta gấp nhiều lần, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại; trong khi đó, lực lượng của ta vừa ít, vừa phải dàn mỏng trên một địa bàn rộng lớn, dân cư thưa thớt, giao thông liên lạc khó khăn, lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc men thường xuyên thiếu thốn, những tiếp tế, chi viện của tỉnh và Trung ương không đến được; tiếp tế của nhân dân tại chỗ cũng cực kỳ khó khăn, do địch đánh phá, triệt cắt tiếp tế quyết liệt; đói cơm, thiếu muối thường xuyên xảy ra, cán bộ, chiến sĩ của ta phải ăn rau rừng, củ rừng thay cơm để đánh giặc nhưng Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc trong huyện quán triệt tư tưởng tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, xây dựng ý chí, nghị lực và quyết tâm cao để vượt qua mọi cam go, thử thách, vươn lên đáp ứng yêu cầu phát triển chung của phong trào cách mạng trong tỉnh và cả nước.

Trải qua rèn luyện, thử thách trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng bộ huyện Đức Trọng luôn luôn tin tưởng tuyệt đối vào đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng được vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của địa phương để tổ chức và lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang, góp phần xứng đáng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bồi đắp nên những bài học, những truyền thống cách mạng quý báu của phong trào cách mạng ở địa phương:

 

Một là: Nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn đường lối, phương châm, phương pháp cách mạng của Đảng vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của địa phương.

Phải nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng bạo lực và cách mạng không ngừng của Đảng, gắn kết chặt chẽ “2 chân 3 mũi” trong đấu tranh cách mạng. Nhân tố hàng đầu, quyết định thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở địa phương là nắm vững đường lối, phương châm, phương pháp cách mạng của Đảng. Trên cơ sở đánh giá rõ, đánh giá đúng tình hình thực tế, hoàn cảnh, đặc điểm lịch sử cụ thể trong từng thời gian để vận dụng linh hoạt, sáng tạo đề ra nhiệm vụ, phương châm, phương pháp hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả, giành thắng lợi.

Vượt qua mọi thử thách, gian nan, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân các dân tộc trong huyện luôn kiên cường, đấu tranh anh dũng. Từ những năm đấu tranh chống áp bức bóc lột của công nhân, nông dân trong huyện liên tục nổi dậy và được ánh sáng của Đảng thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh giành thắng lợi trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ huyện từng bước trưởng thành về mọi mặt, tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú, sinh động trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng và xây dựng cơ sở, cốt cán của cách mạng; phương thức, nghệ thuật tổ chức quần chúng và lãnh đạo phong trào quần chúng đấu tranh cách mạng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng đã đạt đến trình độ nghệ thuật; kết hợp nhuần nhuyễn giữa hoạt động công khai, hợp pháp với hoạt động bí mật, bất hợp pháp; kết hợp giữa hoạt động công khai với hoạt động bán công khai. Từng bước xây dựng, chuẩn bị lực lượng từ ít đến đông, từ yếu đến mạnh; từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, từ đấu tranh chính trị đến đấu tranh vũ trang; kết hợp giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận, từ xây dựng vùng tranh chấp lên tranh chấp mạnh và giành quyền làm chủ, từ xây dựng các lõm chính trị, giải phóng từng phần lên giải phóng hoàn toàn, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

  Trong thực tiễn cách mạng chứng minh trong thời kỳ nào, giai đoạn nào, chủ quan, đơn giản, mất cảnh giác, không kết hợp nhuần nhuyễn phương châm, phương pháp cách mạng và phương thức hoạt động, sớm bộc lộ lực lượng thì giai đoạn đó, thời kỳ đó cách mạng bị tổn thất, phong trào cách mạng gặp khó khăn như: Tết Mậu Thân (năm 1968), do chủ quan, đưa hết lực lượng ra công khai để làm nòng cốt trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy, làm lộ những cơ sở, cốt cán cách mạng bên trong các khu địch tạm chiếm, nên sau đợt tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân (năm 1968), địch phản kích đánh phá quyết liệt, gây tổn thất lớn lực lượng cơ sở cách mạng, phong trào cách mạng gặp rất nhiều khó khăn và vô cùng gay gắt. Đây là khuyết điểm lớn của ta, nhưng cũng là bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

 

Hai là: Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân các dân tộc trong huyện là nhân tố cơ bản tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, vững chắc và tất thắng.

Là một địa phương có thành phần dân cư đa dạng và phức tạp về nguồn gốc, dân tộc, về phong tục tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo. Đa số nhân dân các dân tộc trong huyện là những người lao động nghèo, bị chế độ thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, một bộ phận đi lánh nạn khủng bố của địch hoặc vì cuộc sống khó khăn phải rời quê hương, hội tụ về đây làm ăn sinh sống. Trong họ vốn có truyền thống yêu quê hương, đất nước, có tinh thần chống áp bức, bóc lột và bất công. Những nét riêng của từng dân tộc, từng địa phương, từng thành phần hòa quyện cùng với những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc sinh sống trên địa bàn huyện, kết thành những đức tính của con người Đức Trọng: đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động; thương yêu đùm bọc, nhường cơm, xẻ áo cho nhau trong khó khăn, hoạn nạn; kiên cường, dũng cảm trong đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công và chống giặc ngoại xâm.

Thắng lợi trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là sự đóng góp to lớn và hy sinh cao cả của nhân dân các dân tộc trong huyện. Biết bao đồng bào đã phải chịu đựng khó khăn, gian khổ và hiểm nguy, chở che, nuôi dưỡng cho nhiều cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Biết bao bà mẹ, người vợ phải chịu cảnh tù đày nhưng vẫn một lòng kiên trung, bất khuất, sẵn sàng anh dũng hy sinh cho Đảng, cho cách mạng, cho Tổ quốc và quê hương Đức Trọng.

Thắng lợi của tinh thần chịu đựng gian khổ, sự trung thành vô hạn của cán bộ, chiến sĩ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Thà chịu gian khổ, hy sinh, không rời nhiệm vụ, không thoát ly chiến trường, hoàn thành mọi nhiệm vụ của Đảng và cách mạng giao phó.

Thực tế lịch sử, nhất là lịch sử của 30 năm đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, khẳng định: Sự đoàn kết các dân tộc và truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của nhân dân các dân tộc là nhân tố tạo thành sức mạnh tổng hợp, nguồn sức mạnh vô địch không gì lay chuyển nổi để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Ngày nay, sức mạnh và truyền thống đó đã và đang được Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể các cấp trong huyện chăm lo, bồi dưỡng, phát huy để xây dựng quê hương Đức Trọng ngày càng giàu mạnh, văn minh.

 

Ba là: Công tác dân vận là một những công tác cơ bản, trọng tâm của cách mạng, góp phần vào thắng lợi của phong trào cách mạng.

Do làm tốt công tác dân vận và công tác dân tộc, đã phát động, giáo dục, giác ngộ cách mạng cho đông đảo quần chúng, xây dựng được cơ sở, cốt cán, tạo thành thực lực cách mạng trong nhân dân trên các địa bàn, các thôn, buôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác mở đường hành lang và củng cố, giữ vững đường hành lang chiến lược Bắc - Nam là một thắng lợi lớn, bước ngoặt mở đầu cho phong trào cách mạng của huyện Đức Trọng phát triển, góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Bốn là: Mối quan hệ hữu cơ giữa phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng với thành phố Đà Lạt là nhân tố thúc đẩy phong trào cách mạng ở đô thị  phát triển.

Là một huyện nông thôn miền núi, áp sát đô thị Đà Lạt về phía Nam, là địa bàn tạo thế đứng chân cho tỉnh và thị xã Đà Lạt, một địa bàn được kẻ thù mệnh danh là “vùng bất khả xâm phạm” và một trong những hậu cứ quan trọng bậc nhất của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Nam Tây Nguyên và miền Nam, địch đã xây dựng Đà lạt thành một hậu cứ an toàn, làm chỗ dựa cho bộ máy chiến tranh xâm lược của thực dân, đế quốc và tay sai. Do đặc điểm vị trí địa lý đó mà địa bàn huyện Đức Trọng luôn là nơi thử thách ác liệt đối với con người trong công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, một cuộc chiến giằng co quyết liệt giữa một bên là nhân dân cách mạng với bên kia là kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai phản động, bán nước.

Vị trí địa lý của huyện Đức Trọng đã tạo ra mối quan hệ hữu cơ giữa phong trào cách mạng ở huyện Đức Trọng với phong trào cách mạng trong thành phố Đà Lạt. Nhắc tới sự phát triển của phong trào nội ô thành phố Đà Lạt cũng có nghĩa  nói tới sự vươn lên mạnh mẽ của phong trào đấu tranh của nhân dân huyện Đức Trọng. Đà Lạt có vững, có đi lên mạnh mẽ trong đấu tranh vì lẽ có huyện Đức Trọng là bàn đạp, là chỗ đứng chân của các cơ quan lãnh đạo của Tỉnh ủy và Thị ủy chỉ đạo các hoạt động trong nội ô thành phố Đà Lạt và là nơi đứng chân, nơi cung cấp những nhu cầu cần thiết cho các cơ quan, đơn vị và cán bộ chiến sĩ của thành phố Đà Lạt hoạt động. Ngược lại, huyện Đức Trọng cũng luôn giữ được mối quan hệ, nhận được những tác động mạnh mẽ, tích cực của phong trào từ thành phố Đà Lạt dội đến. Qua cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của Đảng bộ, nhân dân huyện Đức Trọng và thị xã Đà Lạt đã chứng minh sự gắn bó mật thiết, keo sơn trong mối quan hệ đó.

 

Năm là: Thường xuyên làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng chi bộ là hạt nhân quyết định thắng lợi trong lãnh đạo phong trào cách mạng.

Phải làm tốt công tác xây dựng cơ sở, cốt cán cách mạng, tạo nguồn để làm tốt công tác phát triển đảng viên, xây dựng chi bộ, hình thành sự lãnh đạo của Đảng trong lòng địch.

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của huyện Đức Trọng trong 45 năm qua đã chứng minh, ở thời kỳ nào, giai đoạn nào của phong trào cách mạng ở địa phương chưa quan tâm đầy đủ, chưa đặt vị trí công tác xây dựng Đảng vào trung tâm, then chốt của nhiệm vụ cách mạng thì ở đó, lúc đó phong trào cách mạng gặp khó khăn, tổn thất. Thậm chí không chỉ không giữ vững được phong trào mà còn bị đánh bật ra khỏi địa bàn đứng chân, làm cho vùng căn cứ, vùng giải phóng bị thu hẹp, đẩy lực lượng cán bộ, chiến sĩ cách mạng vào tình thế cực kỳ khó khăn, đói cơm, lạc muối, thiếu thuốc men, vũ khí nghiêm trọng.

Chỉ có làm tốt công tác xây dựng cơ sở, cốt cán, tạo nguồn đề phát triển đảng viên, làm nòng cốt lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng và xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Phong trào cách mạng mới có tổ chức và lực lượng tại chỗ, kịp thời đề ra nhiệm vụ, phương châm, phương pháp đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn kèm kẹp, khống chế, càn quét, đánh phá của địch, đồng thời giữ gìn, bảo toàn và phát triển lực lượng cơ sở, cốt cán cách mạng, xây dựng và phát triển đảng viên làm nòng cốt lãnh đạo, thúc đẩy phong trào cách mạng lên những bước phát triển cao hơn, mạnh mẽ hơn và giành được thắng lợi to lớn hơn.

Trong xây dựng Đảng, phải coi trọng cả về số lượng và chất lượng, nhất là phải đặc biệt coi trọng chất lượng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả 3 mặt đó phải gắn bó chặt chẽ, quan hệ, tác động qua lại mật thiết với nhau, dù trong hoàn cảnh nào, điều kiện nào cũng không được tách rời, không được xem nhẹ bất cứ mặt nào.

Trên cơ sở chăm lo công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ huyện Đức Trọng đã huy động được sức mạnh cả về tinh thần và lực lượng, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh để đưa phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển vững mạnh, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

 Trong những thời điểm cực kỳ khó khăn, tưởng chừng không thể vượt qua, công tác xây dựng Đảng đã góp phần quyết định trong việc củng cố tổ chức và lực lượng, động viên tinh thần, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc trong huyện quán triệt quan điểm cách mạng, không ngừng phát huy tư tưởng cách mạng tiến công, vượt qua mọi thử thách, hy sinh để giành thắng lợi, củng cố, khôi phục và phát triển phong trào cách mạng ở địa phương lớn mạnh, đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc kháng chiến, giành được thắng lợi ngày càng to lớn và vững chắc hơn.

Những bài học kinh nghiệm và cũng là những truyền thống đó được Đảng bộ huyện Đức Trọng kế thừa, phát huy trong thời kỳ mới, thời kỳ Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện tiếp tục vượt qua những khó khăn, thử thách trong giai đoạn cách mạng mới, phấn đấu xây dựng quê hương Đức Trọng ngày càng giàu mạnh, văn minh, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

- 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam-Những chặng đường lịch sử vẻ vang- NXB Lao động, 2009.

- Lịch sử Khu 6 kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002.

- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (1930-1975), NXB Chính trị Quốc gia, năm 2007.

- Địa chí Lâm Đồng, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội năm 2001.

- Sơ thảo truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Đức Trọng (1930-1975).

- Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Trọng (1975-2000).

- Hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng, lãnh đạo chủ chốt của huyện trước năm 1975.

- Một số tài liệu do Phòng lịch Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng cung cấp.

 

 

 

Lượt xem: 3.528
Liên kết website

Thống kê truy cập
  • 000651894
  •  Đang online: 76
  •  Trong tuần: 3.771
  •  Trong tháng: 25.205
  •  Trong năm: 325.294